Mẹ MARIA dạy sống Kinh Mân Côi

langvuon

khoai nướng
#81
Ðề: Lịch Phụng Vụ tháng 3/2011

Thứ Tư 09 Tm
Thứ Tư Lễ Tro. Ăn chay kiêng thịt
Thánh Frances thành Rôma, Tu Sĩ
Ge 2: 12-18 2Cor 5: 20–6 Tv 51: 3-4, 5-6, 12-13, 14, 17 Mt 6: 1-6, 16-18

Thứ Tư Lễ Tro
“ĐỪNG XÉ ÁO, NHƯNG HÃY XÉ LÒNG!”

Từ bố thí cho người nghèo đến đấu tranh chống nghèo đói, bất công
: Trong xã hội Do Thái vào thời Chúa Giê-su cũng đã có hố ngăn cách giữa người giầu và người nghèo và cũng đã có nhiều bất công xã hội. Nhưng không thể so sánh với thế giới ngày nay, vì hố ngăn cách giầu nghèo và bất công xã hội là một “điểm đen” lớn nhất của thời đại hiện nay. Chúng ta không có gì phải ngạc nhiên khi thấy Giáo hội triển khai giáo huấn Lời Chúa mà nhấn mạnh rất nhiều đến trách nhiệm biến đổi xã hội và thay đổi cơ chế bất công. Vào những năm 30 thời Công nguyên, bố thí tiền của cho người nghèo đói, túng thiếu là một hành vi bác ái được chính Chúa Giê-su giảng dạy. Cũng giáo huấn về bố thí ấy, ngày nay Giáo hội dạy chúng ta không chỉ giúp người nghèo có cơm ăn áo mặc mà chúng ta còn phải đứng về phía người nghèo để yêu và thương bênh vực họ, chống lại nạn nghèo đói, bóc lột, bất công đang làm họ mất phẩm giá làm người.

Từ cầu nguyện mang tính cá nhân đến cầu nguyện mang tính toàn cầu: Vào thời Chúa Giê-su khi nói đến cầu nguyện người ta nghĩ đến lời cầu nguyện cá nhân hay cộng đoàn kẻ tin. Ngày nay lời cầu nguyện của Ki-tô hữu phải mang chiều kích toàn cầu. Vì lời cầu nguyện của chúng ta phải chứa đựng tâm tư, khát vọng, số phận của hằng triệu, thận chí hàng tỷ, con người cơm không đủ ăn, nước không đủ uống. Lời cầu nguyện của chúng ta ngày nay không chỉ dừng lại ở ý chỉ và lời cầu xin, mà còn phải bao hàm cả hành động đấu tranh cho người nghèo và người bị gạt ra ngoài lề xã hội, cho hố ngăn cách giữa giầu nghèo được rút ngắn lại, cho thế giới có công lý và hòa bình, cho phẩm giá con người được tôn trọng.

Từ ăn chay là nhịn ăn nhịn uống đến tự nguyện khước từ địa vị, quyền bính, danh vọng, lạc thú và nhất là chia sẻ của cải vật chất: Trong lãnh vực ăn chay, nếu so sánh hai thời điểm thập niên 30 của thế kỷ thứ nhất với những năm đầu thế kỷ 21 này cũng có một bước tiến rất dài. Ngày xưa ăn chay chủ yếu là nhịn ăn, nhịn uống một hai ngày hoặc dài lắm là 40 ngày của Mùa Chay và là hãm mình ép xác. Còn ngày nay ăn chay thật sự là dám tự nguyện khước từ địa vị, quyền bính, danh vọng, lạc thú và nhất là chia sẻ của cải vật chất với những người túng thiếu. Vì, như lời Thánh Phao-lô viết cho Ti-mô-thê (Tm 6,10) mà Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã lấy lại: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn ấy, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé Bóc lột người khác, thờ ơ trước đau khổ của anh chị em mình, và vi phạm những luật luân lý cơ bản, đó chỉ là vài hậu quả của lòng ham muốn tìm kiếm lợi lộc” (Sứ Điệp Mùa Chay 2003, số 2)

Vì thế mà ngôn sứ Giô-en mới kêu gọi sám hối bằng lời bất hủ: “Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng.” Xé áo là việc tương đối dễ, nhưng xé lòng mới là việc khó, mới là điều cơ bản. Xe áo là thay đổi bên ngoài, là thay đổi cái vỏ còn xé lòng là thay đổi bên trong tức thay đồi tư duy, cách nghĩ và cách làm, là tự nguyện từ bỏ những thực tại có giá trị nhưng nguy hiểm cho phần hồn như giầu sang, danh vọng, quyền bính.

Sống sứ điệp Lời Chúa hôm nay thì trước hết chúng ta phải đi ngược lại với xu hướng tự nhiên của con người, nhất là của người thời nay: đó là xu hướng thích nhận hơn là thích cho, thích thu gom hơn là chia sẻ. Xu hướng tự nhiên này, nếu không được kiểm soát và kiềm chế, sẽ đưa con người đến chỗ thờ ơ với đau khổ của anh chị em mình, vi phạm những luật luân lý cơ bản và bóc lột người khác.

Kế đến, sống Sứ điệp Lời Chúa hôm nay là chúng ta sống theo tiếng nói nội tâm tận đáy lòng thôi thúc mỗi người chúng ta thiết lập mối tương quan yêu thương với tha nhân và sẵn sàng trao ban chính mình cho kẻ khác để chúng ta được nên hoàn thiện.

Sau cùng, sống Sứ điệp Lời Chúa hôm nay là chúng ta đáp lại tiếng mời gọi thiết tha của Thiên Chúa và của Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã trao ban tất cả cho chúng ta, kể cả chính Mình Người và Con Một yêu dấu của Người vì yêu thương chúng ta.

Tình yêu của Chúa Ki-tô là nguồn sức mạnh và là gương mẫu.

Đức cố Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã khẳng định: “Nỗ lực cổ võ công bình của Ki-tô hữu, sự dấn thân của họ trong việc bênh vực những người cô thế cô thân, những công việc nhân đạo trong việc cung cấp bánh ăn cho người đói khát và việc chăm sóc cho người bệnh tật khi đáp lại mọi cơn cùng khốn và nhu cầu, tìm được sức mạnh trong kho tàng duy nhất và vô hạn của Tình yêu là sự dâng hiến trọn vẹn của Chúa Giê-su Ki-tô cho Chúa Cha. Người tín hữu được mời gọi bước theo dấu chân của Chúa Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa thật và người thật, Đấng, khi hoàn toàn vâng phục ý muốn của Chúa Cha, đã tự hủy (x. Pl 2, 6tt) và khiêm tốn ban tặng chính mình cho chúng ta trong một tình yêu xả kỷ và trọn vẹn, cho đến chết trên thập giá. Đồi Can-vê loan báo cách hùng hồn sứ điệp về Tình Yêu của Ba Ngôi đối với con người thuộc mọi thời đại và dân nước” (Sứ Điệp Mùa Chay 2003, số 3).

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

Ngày 09 tháng 03
Thánh Frances ở Rôma
(1384 - 1440)

Đời sống Thánh Frances bao gồm các khía cạnh của đời thường và đời tu trì. Là một người nội trợ tận tụy và duyên dáng, ngài ước ao một đời sống cầu nguyện và phục vụ, do đó ngài tổ chức một nhóm phụ nữ để chăm sóc người nghèo ở Rôma.

Sinh trong một gia đình giàu có, ngay từ thời niên thiếu Frances đã cảm thấy mình yêu mến đời sống tu trì. Nhưng cha mẹ ngài chống đối và một thanh niên quý tộc đã được chọn để làm vị hôn phu.

Khi bắt đầu quen biết với họ hàng nhà chồng, Frances khám phá rằng cô em dâu của mình cũng ước ao một đời sống phục vụ và cầu nguyện. Do đó, cả hai người, Frances và Vannozza, với sự ưng thuận của các ông chồng, họ bắt đầu luyện tập đời sống tâm linh bằng cách siêng năng tham dự Thánh Lễ, thăm viếng kẻ tù đầy, phục vụ trong các bệnh viện, giúp đỡ người nghèo và thành lập một nhà nguyện bí mật trong ngôi tháp bỏ hoang để cùng nhau cầu nguyện.

Nhiều năm trôi qua, bà Frances sinh hạ hai trai và một gái. Với trách nhiệm của một đời sống gia đình, bà đã dành nhiều thời giờ để lo cho chồng con. Gia đình bà trở nên phát đạt dưới sự quán xuyến của bà, nhưng chỉ được vài năm, trận dịch hạch đã càn quét cả nước Ý và cướp đi đứa con trai thứ hai của bà. Ðể giúp vơi bớt đau khổ của các nạn nhân trận dịch, bà dùng tiền của và tài sản để cung ứng cho các nhu cầu của bệnh nhân. Khi mọi nguồn tài chánh đều cạn kiệt, bà Frances và Vannozza đã đi xin từng nhà. Về sau, khi cô con gái qua đời, bà Frances đã biến một phần căn nhà thành bệnh viện.

Càng ngày bà Frances càng tin tưởng rằng một đời sống cho tha nhân thì cần thiết cho thế gian. Với sự hậu thuẫn của đức lang quân, bà Frances bắt đầu thành lập một tổ chức xã hội dành cho các phụ nữ, được gọi là Hiến Sĩ của Ðức Maria (không có lời khấn). Họ chỉ dâng mình cho Chúa và cho sự phục vụ người nghèo.

Khi tổ chức đã được thành lập, bà Frances không sống trong cơ sở của cộng đoàn mà sống ở nhà với chồng trong bảy năm. Cho đến khi người chồng từ trần, bà sống quãng đời còn lại với cộng đoàn để phục vụ những người bần cùng trong xã hội.

Lời Bàn

Nhìn vào đời sống gương mẫu -- trung tín với Thiên Chúa và tận tụy với tha nhân -- của Thánh Frances nhắc chúng ta nhớ đến Mẹ Têrêsa Calcutta. Ngài nhìn thấy Ðức Giêsu Kitô trong lời cầu nguyện cũng như trong người nghèo. Cuộc đời của Thánh Frances mời gọi chúng ta đừng chỉ tìm kiếm Thiên Chúa trong lời cầu nguyện, mà hãy tận tụy với Ðức Kitô đang sống động trong sự đau khổ của thế giới. Thánh Frances cho chúng ta thấy, một cuộc đời vì tha nhân không nhất thiết chỉ gò bó trong những giới hạn của lời khấn.

Lời Trích

Mẹ Têrêsa có lần nói về người nữ tu trong cộng đoàn của ngài: "Hãy để Ðức Kitô toả sáng và sống động trong và qua người nữ tu khi họ đến các khu tồi tàn. Hãy giúp người nghèo mỗi khi nhìn thấy các nữ tu thì họ được thu hút đến Ðức Kitô và mời Ngài vào trong nhà họ và cuộc đời họ." Thánh Frances ở Rôma nói: "Một phụ nữ đã lập gia đình mà còn đạo đức thì thật đáng khen ngợi, nhưng họ đừng bao giờ quên rằng mình là người nội trợ. Và đôi khi, họ phải để Thiên Chúa ở bàn thờ mà về với ông chồng trong công việc hàng ngày."
 

langvuon

khoai nướng
#82
Ðề: Lịch Phụng Vụ tháng 3/2011

Thứ Năm 10 Tm
Thứ Năm sau Thứ Tư Lễ Tro
Dnl 30: 15-20 Tv 1: 1-2, 3, 4, 6 Lc 9: 22-25

Thứ Sáu 11 Tm
Thứ Sáu sau Thứ Tư Lễ Tro
Kính thánh tử đạo Đaminh Cẩm, Lm
Is 58: 1-9 Tv 51: 3-4, 5-6, 18-19 Mt 9: 14-15

Thứ Bảy 12 Tm
Thứ Bảy sau Thứ Tư Lễ Tro
Is 58: 9-14 Tv 86: 1-2, 3-4, 5-6 Lc 5: 27-32

Ngày 11 tháng 03
Thánh Đaminh CẨM
Linh mục dòng ba Đaminh - (?-1859)

Trên đường nhiệm vụ: Đi bất cứ nơi nào khi trách vụ đòi hỏi

Đó phải chăng là kỷ luật một người lính ?- như vậy thì cha Cẩm đích thực là một người lính của Chúa Kitô, chiến đấu cho tình thương.

Đó phải chăng là đức tính của một người tôi trung ?- Cha Cẩm cũng đúng thực là một người đầy tớ khôn ngoan và trung thành “đúng giờ phân phối thóc gạo cho gia nhân”, và luôn “cầm đèn sáng chờ đợi chủ về”.

Đi bất cứ nơi nào khi trách vụ đòi hỏi. Điều đó có vẻ đơn giản quá, bình thường quá, chưa có nét gì là một cuộc ra đi “vĩ đại”, một cuộc lên đường đảo lộn cuộc đời. Thế nhưng nó vẫn là một cuộc lên đường thực sự trong từng công việc bình thường, và nếu như cái vẻ bề ngoài của một cuộc lên đường còn chưa bộc lộ hết tấm lòng cương quyết, trung kiên của một người lính, một người tôi trung thì trong cuộc đời cha Cẩm, chính cái chết, phải, chính cái chết đã làm trọn tất cả, bộc lộ được những gì cao đẹp nhất của những lần lên đường. Vì thật ra nó chỉ là một cuộc lên đường duy nhất về Nhà Cha.

Linh mục nhiệt thành

Đaminh Cẩm sinh tại làng Cẩm Giàng (hay Cẩm Chương), xứ Kẻ Roi, tỉnh Bắc Ninh (nay là Hà Bắc, gồm hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang). Vì thông minh sắc xảo từ nhỏ, nên cậu Đaminh Cẩm được thu nhận vào nhà Chúa. Sau khi mãn khóa thần học, thầy Cẩm được lãnh chức linh mục. Vị linh mục trẻ trung này chẳng bao lâu đã xin gia nhập dòng ba Đaminh. Cha rất nhiệt thành với việc tông đồ, và được bề trên cũng như mọi người quý mến.

Năm 1848, khi tòa thánh chia giáo phận Đông Đàng Ngoài thành hai giáo phận Đông (Hải Phòng) và Trung (Bùi Chu) thì cha Đaminh Cẩm tuy sinh quán Bắc Ninh (thuộc giáo phận Đông), lại được cử phục vụ ở giáo phận Trung có số tín hữu đông gấp ba lần. Tại đây khi cuộc bách hại trở nên gay gắt, vì lợi ích của giáo dân cha phải lẩn trốn hết nơi này đến nơi khác. Nhưng mỗi khi trách nhiệm mục vụ đòi hỏi cha Cẩm luôn sẵn sàng đi đến bất cứ nơi đâu, dù có nguy cơ bị bắt bớ.

Đầu năm 1859, khi cha về Hà Lan ẩn náu, một người phát hiện ra cha và tố cáo với quan (lúc này người nào khai báo các thừa sai hay linh mục, đều được thưởng tiền bạc chức tước). Do đó quan quân đến vây bắt cha tại Hà Lan ngày 21-01-1859 và giải cha về Hưng Yên.

Trước mặt quan tổng đốc, cha Đaminh Cẩm khẳng khái nhận mình là linh mục Công Giáo và sẵn sàng chấp nhận mọi hình khổ, chư không bao giờ chà đạp Thánh Giá. Sau nhiều lầnkhuyến dụ và đe dọa nhưng không kết quả, quan Tổng Đốc ra lệnh nhốt cha vào cũi chật hẹp ròng rã mấy tháng trời.

Hào quang thiên quốc

Trong thời gian bị giam, tư cách và đức độ của cha Cẩm đã khiến quân lính cảm kích, nên họ dễ dãi cho phép nhiều giáo hữu lui tới thăm viếng cha. Noi gương thánh Phaolô Tông Đồ, cha nhân cơ hội này tiếp tục giảng Tin Mừng và khuyên nhủ mọi người trung thành giữ vững đức tin, hết lòng đặt trọn niềm cậy trông nơi Chúa. Nhờ các giáo hữu liên lạc, nhiều lần cha đã viết thư cho vị giám mục giáo phận, đức cha Valentinô Vinh, bày tỏ lòng trung kiên với Đức Kitô và mong mỏi khao khát được phúc tử đạo. Đức cha cho linh mục Hương vào thăm và giải tội cho cha Cẩm ngày 30-01.

Khi nhận được tin kết án trảm quyết, cha Đminh Cẩm tỏ vẻ hân hoan vui mừng. Trên đường đến pháp trường cha hiên ngang như một chiến sĩ khải hoàn. Bà Maria Huệ, một giáo dân hiện diện trong giờ hành quyết đã làm chứng: “Khi tới nơi xử cha cầu nguyện một lát, rối vui vẻ làm hiệu cho lý hình thi hành phận sự”.

Quân lính vung gươm chém cha ba nhát mà đầu vẫn chưa đứt. Họ phải cứa đi cứa lại nhiều lần, đầu cha mới lìa khỏi thân. Hôm đó là ngày 11-03-1859. Thi thể sau được rước về an táng ở Cẩm Chương là nguyên quán của vị tử đạo.

Ngày 29-04-1951, Đức thánh cha Piô XII suy tôn cha Đaminh Cẩm cùng với 24 vị tử đạo khác lên bậc chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
 

langvuon

khoai nướng
#83
Ðề: Lịch Phụng Vụ tháng 3/2011

Chúa Nhật 13 Tm
Chúa Nhật thứ I Mùa Chay
St 2: 7-9; 3: 1-7 Tv 51: 3-4, 5-6, 12-13, 14, 17 Rm 5: 12, 17-19 Mt 4: 1-11

Thứ Hai 14 Tm
Thứ Hai sau Chúa Nhật thứ I Mùa Chay
Lv 19: 1-2, 11-18 Tv 19: 8, 9, 10, 15 Mt 25: 31-46

Thứ Ba 15 Tm
Thứ Ba sau Chúa Nhật thứ I Mùa Chay
Is 55: 10-11 Tv 34: 4-5, 6-7, 16-17, 18-19 Mt 6: 7-15

Thứ Tư 16 Tm
Thứ Tư sau Chúa Nhật thứ I Mùa Chay
Gn 3: 1-10 Tv 51: 3-4, 12-13, 18-19 Lc 11: 29-32

Thứ Năm 17 Tm
Thứ Năm sau Chúa Nhật thứ I Mùa Chay
Thánh Patrick, Tiến Sĩ
Et 9: 12, 14-16, 23-25 Tv 138: 1-2, 2-3, 7-8 Mt 7: 7-12

Thứ Sáu 18 Tm
Thứ Sáu sau Chúa Nhật thứ I Mùa Chay
Thánh Cyril đệ Jerusalem, Gmtsht
Ed 18: 21-28 Tv 130: 1-2, 3-4, 4-6, 7-8 Mt 5: 20-26

Ngày 17 tháng 03
Thánh Patrick
(389?-461?)

T
ruyền thuyết về Thánh Patrick thì quá nhiều; nhưng khi nhìn đến hai đức tính chắc chắn của ngài: khiêm tốn và dũng cảm thì điều đó có ích lợi cho chúng ta. Chính thái độ cương quyết khi chấp nhận đau khổ cũng như thành công đã hướng dẫn cuộc đời của Thánh Patrick, một khí cụ của Thiên Chúa, để chiến thắng cho Ðức Kitô hầu như tất cả tâm hồn người Ái Nhĩ Lan.

Chi tiết về đời ngài thì không chắc chắn. Về nơi sinh trưởng của Thánh Patrick, có người cho là ở Kilpatrick, Tô Cách Lan, có người nói ở Cumberland, Anh Quốc. Cha mẹ ngài là người Rôma sống ở Anh Quốc với nhiệm vụ cai quản các bán đảo.

Khoảng 14 tuổi, chính ngài và phần lớn các nô lệ cũng như các quần thần của cha ngài bị hải tặc Ái Nhĩ Lan bắt và bán làm nô lệ để chăn cừu. Trong thời gian này, Ái Nhĩ Lan là đất của người Druid và ngoại giáo. Ở đây, ngài học ngôn ngữ và phong tục của dân tộc đang bắt giữ ngài.

Sáu năm sau, Patrick vượt thoát, có lẽ đến nước Pháp, và sau đó trở về Anh đoàn tụ với gia đình. Trong thời gian bị bắt tinh thần ngài thay đổi hoàn toàn. Ngài bắt đầu học làm linh mục, và được chịu chức bởi Thánh Germanus, Ðức Giám Mục của Auxerre.

Sau đó, khi 43 tuổi ngài được tấn phong giám mục. Trong một thị kiến, dường như "mọi trẻ con ở Ái Nhĩ Lan từ trong lòng mẹ vươn cánh tay" đến ngài. Ngài hiểu thị kiến này là một lời mời gọi đi rao giảng Tin Mừng cho người ngoại giáo Ái Nhĩ Lan. Ngài đến phía tây và phía bắc, là nơi chưa bao giờ đức tin được rao giảng ở đây, và ngài đã được sự bảo vệ của các vua chúa trong vùng và đã hoán cải rất nhiều người.

Ngài tấn phong nhiều linh mục, chia quốc gia này thành các giáo phận, tổ chức các công đồng, thành lập vài đan viện và tiếp tục thúc giục dân chúng sống thánh thiện hơn.

Ngài chịu đau khổ vì bị các tăng sĩ ngoại giáo chống đối, và bị chỉ trích cả ở Anh và Ái Nhĩ Lan vì đường lối truyền giáo của ngài.

Trong 40 năm rao giảng và hoán cải, ngài đã làm nhiều phép lạ và đã viết Confessio nói về tình yêu của ngài dành cho Thiên Chúa. Ngài từ trần năm 461 ở Saul, là nơi ngài xây dựng nhà thờ đầu tiên.

Lời Bàn

Ðiểm đặc biệt của Thánh Patrick là sự bền bỉ trong các nỗ lực. Chỉ khi nghĩ đến tình trạng của Ái Nhĩ Lan lúc ngài mới bắt đầu truyền giáo, với phạm vi rộng lớn mà ngài phải lao nhọc và hạt giống đức tin mà ngài đã vun trồng hiện vẫn tiếp tục nẩy nở và phát triển, thì người ta mới thán phục con người của Thánh Patrick. Sự thánh thiện của một con người chỉ có thể nhận biết qua kết quả của họ.

Lời Trích

"Ðức Kitô che chở tôi hôm nay: Ðức Kitô ở với tôi, Ðức Kitô ở trước tôi, Ðức Kitô ở sau tôi, Ðức Kitô ở trong tôi, Ðức Kitô ở dưới tôi, Ðức Kitô ở trên tôi, Ðức Kitô ở bên phải tôi, Ðức Kitô ở bên trái tôi, Ðức Kitô ở với tôi khi nằm nghỉ, Ðức Kitô ở với tôi khi thức dậy, Ðức Kitô ở trong tâm hồn bất cứ ai khi nghĩ đến tôi, Ðức Kitô ở trong mắt những ai khi nhìn thấy tôi, Ðức Kitô ở trong tai những ai khi nghe lời tôi" (trích từ ca vịnh của Thánh Patrick).

Ngày 18 tháng 03
Thánh Cyril thành Jerusalem
Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh
(315?-386)

Chúng ta không biết nhiều về cuộc đời thơ ấu của Thánh Cyril. Các sử gia ước đoán ngài sinh trong khoảng năm 315, và lớn lên ở Giêrusalem. Về gia đình ngài, có lẽ cha mẹ ngài là Kitô Hữu và dường như ngài rất thảo kính cha mẹ. Ngài thúc giục các dự tòng kính trọng các bậc sinh thành "vì dù chúng ta có đền đáp thế nào đi nữa, cũng không thể nào bù đắp được công ơn sinh thành của cha mẹ." Chúng ta còn được biết ngài có một em gái và một cháu trai, Gelasius, sau này là giám mục và là thánh.

Qua các văn bút ngài để lại, dường như ngài thuộc về nhóm gọi là Solitary (Ðộc Thân). Họ là những người sống tại gia nhưng giữ đức khiết tịnh, khổ hạnh và phục vụ.

Sau khi được tấn phong là phó tế và sau đó là linh mục, đức giám mục Maximus đã giao cho ngài trách nhiệm dạy giáo lý cho dự tòng và tân tòng. Sách Giáo Lý ngài viết vẫn có giá trị như một thí dụ điển hình cho nền tảng thần học và phụng tự của Giáo Hội vào giữa thế kỷ thứ tư.

Khi Ðức Maximus từ trần, Cha Cyril được tấn phong làm giám mục của Giêrusalem năm 348. Vì ngài được sự hỗ trợ của Ðức giám mục Caesarea là Acacius, người theo lạc thuyết Arian, nên phe chính giáo chỉ trích việc bổ nhiệm này, và phe Arian lại nghĩ rằng họ có thêm một đồng minh. Cả hai phe đều sai lầm, và Ðức Cyril thì kẹt ở giữa.

Thời đó, toàn xứ Palestina bị hạn hán, mất mùa và đói kém, dân chúng chạy đến Ðức Cyril xin giúp đỡ. Vì không có tiền, ngài phải bán một số đồ dùng của nhà thờ để giúp đỡ người đói. Phép lạ Thánh Giá xuất hiện trên nền trời vào ngày lễ Hiện xuống. Ơn nói tiên tri và đặc biệt đời sống thánh thiện của ngài đã là những liều thuốc thần diệu tỉnh thức người Công Giáo, đồng thời cũng là những khí giới sắc bén chống lại bè rối Arians.

Sự bất hòa giữa Ðức giám mục Acacius và Ðức Giám Mục Cyril bắt đầu là về vấn đề quản hạt chứ không phải vấn đề tín lý. Là giám mục của Caesarea, Acacius nghĩ rằng mình có toàn quyền trên các giám mục Palestine. Nhưng Ðức Cyril lý luận rằng thẩm quyền của Acacius không bao gồm Giêrusalem vì Giêrusalem là một "tông tòa" – là ngai toà do các tông đồ thiết lập. Khi Ðức Cyril không hiện diện trong các công đồng mà Acacius triệu tập, Acacius và phe cánh đã kết án ngài là đã bán vật dụng của nhà thờ để kiếm tiền và trục xuất ngài.

Ðức Cyril phải lưu đầy ở Tarsus trong khi chờ đợi việc kháng cáo. Sau đó, ngài xuất hiện trong Công Ðồng Seleucia, trong đó phe bán-Arians chiến thắng. Kết quả là Acacius bị truất phế và Ðức Cyril được trở về ngai toà cũ. Tuy nhiên, hoàng đế không hài lòng về kết quả này, và một lần nữa, Ðức GM Cyril lại bị trục xuất và chỉ trở về khi hoàng đế Julian lên ngôi. Ðược vài năm sau, một sắc lệnh của tân hoàng đế Valens trục xuất tất cả các giám mục được Julian hồi phục, và Ðức Cyril lại phải lưu đầy cho tới khi hoàng đế Valens qua đời.

Có thể nói một nửa nhiệm kỳ giám mục của Ðức Cyril là trong sự đầy ải. Sau cùng, ngài trở về Giêrusalem, lúc ấy đã tan nát vì lạc giáo, ly giáo và tranh giành, tàn lụi vì tội lỗi. Năm 381, ngài đến tham dự Công Ðồng Constantinople, là công đồng hoàn tất bản kinh Tin Kính Nicé và phe Arians bị kết án. Ðức Cyril được thanh minh và được tẩy sạch mọi tiếng xấu trước đây, các giám mục tham dự Công Ðồng đã ca ngợi ngài như vị quán quân chính thống chống với bè phái Arians.

Ðức Cyril sống an bình tám năm ở Giêrusalem và từ trần năm 386, khi ngài khoảng bảy mươi tuổi. Ngài xem như là Thánh Giáo Phụ của Hy Lạp và Đức Giáo Hoàng Leo XIII tuyên xưng là Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1822.
 

langvuon

khoai nướng
#84
Ðề: Lịch Phụng Vụ tháng 3/2011

Thứ Bảy 19 Tr
Thứ Bảy sau Chúa Nhật thứ I Mùa Chay
THÁNH GIUSE BẠN ĐỨC TRINH NỮ MARIA, Lễ Trọng
Dnl 26: 16-19 Tv 119: 1-2, 4-5, 7-8 Mt 5: 43-48

Ngày 19 tháng 03
Thánh Giuse

Phúc Âm đã ca ngợi Thánh Giuse là người "công chính". Ý nghĩa của chữ "công chính" rất sâu xa.

Khi Phúc Âm nói Thiên Chúa "công chính hóa" người nào, điều đó có nghĩa Thiên Chúa, là Ðấng cực thánh và "chính trực", biến đổi người đó bằng cách cho họ được chia sẻ sự thánh thiện của Thiên Chúa, và bởi đó họ đáng được Thiên Chúa yêu mến.

Khi nói Thánh Giuse "công chính", Phúc Âm muốn nói rằng ngài hoàn toàn mở lòng cho tất cả những gì Thiên Chúa muốn làm cho ngài. Ngài trở nên thánh thiện vì tự mở lòng cho Thiên Chúa.

Với những gì còn lại chúng ta dễ phỏng đoán. Hãy suy nghĩ về tình yêu mà ngài đã theo đuổi và dành được con tim của Ðức Maria, và sự sâu xa của tình yêu mà hai người đã chia sẻ cho nhau trong cuộc hôn nhân.

Khi Thánh Giuse quyết định từ bỏ Ðức Maria khi thấy người có thai, điều này không trái với sự thánh thiện của Thánh Giuse. Phúc Âm có ghi lại một chữ quan trọng là ngài dự định thi hành việc này "cách âm thầm" vì ngài là "một người chính trực, nhưng không muốn tố giác bà để bị xấu hổ" (Mátthêu 1:19).

Người công chính thì đơn sơ, vui vẻ, hết lòng vâng lời Thiên Chúa -- khi kết hôn với Ðức Maria, khi đặt tên cho Hài Nhi Giêsu, khi săn sóc gia thất ở Ai Cập, khi đem gia thất về lại Nagiarét, khi sống âm thầm trong bao năm trường với đức tin và dũng cảm.

Vì Thánh Giuse không xuất hiện trong cuộc đời rao giảng công khai của Ðức Giêsu, nhiều sử gia tin rằng có lẽ Thánh Giuse đã từ trần trước khi Ðức Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng.

Thánh Giuse là quan thầy của những người hấp hối, vì người ta cho rằng khi ngài từ trần có Ðức Giêsu và Ðức Maria ở bên cạnh, đó là điều mà tất cả chúng ta đều mong ước khi từ giã cõi đời.

Thánh Giuse còn là quan thầy của Giáo Hội hoàn vũ, của các người làm cha, các thợ mộc, và vấn đề công bằng xã hội.

Lời Bàn

Phúc Âm không nói gì nhiều về Thánh Giuse trong những năm sau khi trở về Nagiarét, ngoại trừ biến cố tìm thấy Ðức Giêsu trong Ðền Thờ (xem Luca 2:41-51). Ðiều này có thể hiểu Thiên Chúa muốn chúng ta biết rằng thánh gia cũng giống như mọi gia đình khác, những biến cố xảy ra cho thánh gia cũng xảy ra cho bất cứ gia đình nào, bởi đó khi bản tính bí ẩn của Ðức Giêsu bắt đầu lộ diện thì mọi người đều không tin là Ngài có thể xuất thân từ gia đình đó: "Ông ấy không phải là con bác thợ mộc hay sao? Mẹ của ông ấy không phải là bà Maria sao...? (Mt 13:55a). Và "Có gì hay ho xuất phát từ Nagiarét?" (Gioan 1:46b).

Lời Trích

"Thánh Giuse được Cha trên trời chọn để làm người bảo vệ đáng tin cậy, che chở những kho báu của Ngài, đó là Chúa Con và Ðức Maria, vị hôn thê của Thánh Giuse. Người đã thi hành nhiệm vụ này với sự trung tín cho đến khi Thiên Chúa gọi người, và nói: 'Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng niềm vui của Thiên Chúa ngươi'" (Thánh Bernadine ở Siena viết về Thánh Giuse).
 

langvuon

khoai nướng
#85
Ðề: Lịch Phụng Vụ tháng 3/2011

Chúa Nhật 20 Tm
Chúa Nhật thứ II Mùa Chay
St 12: 1-4 Tv 33: 4-5, 18-19, 20, 22 2Tm 1: 8-10 Mt 17: 1-9

Thứ Hai 21 Tm
Thứ Hai sau Chúa Nhật thứ II Mùa Chay
Đn 9: 4-10 Tv 79: 8, 9, 11, 13 Lc 6: 36-38

Thứ Ba 22 Tm
Thứ Ba sau Chúa Nhật thứ II Mùa Chay
Is 1: 10, 16-20 Tv 50: 8-9, 16-17, 21, 23 Mt 23: 1-12

Thứ Tư 23 Tm
Thứ Tư sau Chúa Nhật thứ II Mùa Chay
Thánh Turibius đệ Mogrovejo, Gm
Hc 18: 18-20 Tv 31: 5-6, 14, 15-16 Mt 20: 17-28

Thứ Năm 24 Tm
Thứ Năm sau Chúa Nhật thứ II Mùa Chay
Hc 17: 5-10 Tv 1: 1-2, 3, 4, 6 Lc 16: 19-31

Ngày 23 tháng 03
Thánh Turibius ở Mogrovejo
(1538 - 1606)

Cùng với Thánh Rosa ở Lima, Thánh Turibius là vị thánh đầu tiên nổi tiếng ở Tân Thế Giới, phục vụ Thiên Chúa ở Peru, Nam Mỹ trong 26 năm.

Sinh ở Tây Ban Nha và theo học về luật, ngài trở thành một học giả sáng giá đến nỗi được làm giáo sư luật cho Ðại Học Salamanca, và sau đó trở thành chánh án Toà Thẩm Tra ở Granada dưới thời Vua Philip II. Ngài rất thành công, nhưng vẫn chưa phải là một luật sư có thể ngăn cản được những biến cố đột ngột xảy ra trong đời.

Khi toà giám mục Lima trong thuộc địa Peru của Tây Ban Nha trống ngôi, nhà vua quyết định Turibius phải là người giữ chức vụ đó: vì ngài cương quyết và có tinh thần đạo đức. Sau khi được thụ phong linh mục và tấn phong giám mục, ngài được gửi sang Peru năm 1581, là nơi ngài chứng kiến sự tồi tệ của chủ nghĩa thực dân. Ở đây, người Tây Ban Nha xâm lăng vi phạm đủ mọi loại tội lỗi đối với người địa phương. Các lạm dụng của hàng giáo sĩ cũng thật lộ liễu, và Ðức Turibius đã dồn mọi nỗ lực để cải tổ lãnh vực này trước hết.

Ngài bắt đầu các cuộc thăm viếng lâu dài và gian khổ đến tất cả các giáo xứ trong tổng giáo phận mênh mông. Ngài học tiếng địa phương, và trong các chuyến công tác, có khi phải ở đó đến hai ba ngày mà thường không có thực phẩm cũng như giường chiếu. Mỗi sáng ngài đều xưng tội với cha tuyên uý, và cử hành Thánh Lễ với sự sốt sắng tột độ. Trong những người được Thêm Sức từ tay ngài là Thánh Rosa ở Lima, và có lẽ cả Thánh Martin de Porres nữa.

Ngài giúp thiết lập các trường học, nhà thờ, và mở cửa chủng viện đầu tiên trong Tân Thế Giới. Ðể sinh hoạt mục vụ với những người thổ dân, ngài còn sành sõi một vài tiếng địa phương.

Ngài được phong thánh năm 1726.

Lời Bàn

Quả thật Thiên Chúa đã uốn thẳng các đường lối quanh co. Trái với ý định của Turibius, và lại phát xuất từ điểm không ai ngờ là Toà Thẩm Tra, con người này đã trở nên vị chủ chăn giống như Ðức Kitô của các người nghèo và người bị áp bức. Thiên Chúa đã ban cho ngài ơn biết yêu thương tha nhân như điều họ mong đợi.
 

langvuon

khoai nướng
#86
Ðề: Lịch Phụng Vụ tháng 3/2011

Thứ Sáu 25 Tr
Thứ Sáu sau Chúa Nhật thứ II Mùa Chay
LỄ TRUYỀN TIN, Lễ Trọng
St 37: 3-4, 12-13, 17-28 Tv 105: 16-17, 18-19, 20-21 Mt 21: 33-43, 45-46

Ngày 25 tháng 03
LỄ TRUYỀN TIN

MARIA, NGƯỜI NỮ TUYỆT VỜI


Chín tháng trước lễ Giáng Sinh, Giáo Hội mừng lễ Truyền Tin. Dù Đức Maria liên kết chặt chẽ với biến cố đã làm người trở thành Mẹ Thiên Chúa, nhưng chính Ngôi Lời nhập thể mới là trung tâm cử hành hôm nay. Tuy nhiên, để đóng góp phần mình vào công trình cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta đặc biệt chiêm ngưỡng Đức Maria trong cung cách Mẹ nói lời xin vâng với Thiên Chúa để nhận lời cưu mang Chúa Giêsu trong cung lòng trinh khiết hầu ban ơn cứu độ cho nhân loại, cho mọi người.

1.BIẾN CỐ CHÚNG TA ĐỀ CẬP TỚI HÔM NAY LÀ BIẾN CỐ NÀO?:

Cách đây hơn hai ngàn năm, một biến cố vĩ đại, mang nhiều ý nghĩa đã xẩy ra làm đảo lộn cả lịch sử nhân loại, mặc cho lịch sử thế giới một ý nghĩa lớn lao, ý nghĩa cứu độ và ý thực hiện lời hứa của Thiên Chúa nói qua miệng ngôn sứ Isaia:” Này đây một Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên Con Trẻ là EMMANUEN, nghĩa là Thiên- Chúa- ở –cùng- chúng- tôi”. Lời hứa này được hoàn tất khi sứ giả của Thiên Chúa là Thiên Thần Gabrien được sai tới một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét đến với một Trinh Nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse thuộc chi tộc vua Đavít. Sứ thần đã tới Nagiarét để thực hiện sứ mạng cao cả mà Thiên Chúa ủy thác là thực hiện lời hứa từ xa xưa ban Đấng Cứu Độ cho nhân loại vào thời giờ và theo cách thức Thiên Chúa muốn, Thiên Chúa quyết định. Đây là biến cố cứu rỗi, biến cố có một không hai trong lịch sử con người, đến nỗi nếu đã không có sự kiện này thì nhân loại đã khác hẳn hôm nay.

2.PHỤNG VỤ LỜI CHÚA HÔM NAY MỜI GỌI CHÚNG TA SUY NGHĨ GÌ ?

Các bài đọc trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ về thái độ của Mẹ Maria khi Mẹ Maria đón nhận tin vui Ngôi Lời Nhập Thể. Ở đây chúng ta chỉ dừng lại hai điểm:

a. Sau khi trao đổi ngắn ngủi với sứ thần Gabrien, biết được ý Chúa, dù chưa hiểu rõ ràng lắm, Maria đã đơn sơ, mau mắn trả lời cho sứ giả của Thiên Chúa:” Này tôi là tôi tớ Chúa. Xin hãy làm cho tôi theo như lời sứ thần nói”( Lc 1, 38 ). Đó là lời xin vâng chấp nhận một sự phục vụ và sự phục vụ mà Mẹ Maria chấp nhận ở đây là sự trao ban Chúa Giêsu cho nhân loại. Một sứ mạng tuyệt vời, nhưng khiêm tốn vì trở thành Mẹ thì người đàn bà nào cũng có thể hoàn thành theo thiên ý của Thiên Chúa.

Maria nhận lời cưu mang Chúa Giêsu, Mẹ đã ý thức sự trao ban của Mẹ. Chúa sinh ra là cho nhân loại chứ không cho riêng mình:” Mẹ thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần từ Thiên Chúa đến và thuộc về Thiên Chúa”. Khi nói lời xin vâng, Đức Maria đã chấp nhận phục vụ cách rộng lượng. Chính trong tinh thần đó mà Maria đã sống các thời điểm quyết định trong cuộc đời của Chúa Giêsu, Con Mẹ :” Mẹ suy đi nghĩ lại ngày Chúa sinh ra, nát ruột gan khi dâng Chúa vàoo đền thánh theo luật, không hiểu gì về thái độ của con ngày Con lạc mất và tìm thấy Con trong đền thờ Giêrusalem, tin tưởng vào Con trong tiệc cưới Cana, chấp nhận đặt tình nghĩa khí huyết sau lời Chúa, cùng Chúa Giêsu tiến về thập giá như đỉnh cao của tình yêu”. Vai trò của Mẹ Maria như lùi vào phía sau, để cho sứ vụ một Maria tín hữu nổi bật lên. Con tim của Maria như được vét trống tất cả những gì không thuộc về niềm tin của Mẹ.

b. Khi nói lời xin vâng, Đức Maria đã chấp nhận một sự phục vụ nhưng không: Phục vụ như người đầy tớ mà Chúa Giêsu làm gương là phục vụ vì tình yêu. Ở đây, xin đan cử hai trường hợp :” Một, chuyện người đàn bà tội lỗi trong Tin Mừng thánh Luca 7, 36-50 và chuyện bà Maria Bêtania của thánh Gioan 12, 1-8 . Hai người đàn bà đó đều đã xức dầu thơm cho Chúa Giêsu :” Một xức trên tóc và một trên chân của Chúa Giêsu”. Sở dĩ các bà làm như vậy là để cho thấy, xuyên qua việc phục vụ vật chất ấy, các bà tôn vinh Đức Giêsu, và nhất là cho Đức Giêsu thấy rõ, tuy các bà thinh lặng, nhưng qua cử chỉ ấy, các bà yêu mến Chúa Giêsu như thế nào.

Kết quả, ông Simon biệt phái và các tông đồ đều hiểu không đúng và đã công kích các cử chỉ đó. Nhưng Đức Giêsu đã bênh vực các bà. Trong trường hợp của bà Maria Bêtania, Chúa Giêsu bảo:” Để yên cho cô ấy, cô đã giữ dầu thơm này có ý dùng cho ngày mai táng xác Thầy”. Ngài bênh vực bà vì qua cử chỉ phục vụ ấy, bà muốn thực hiện một phục vụ

tình yêu, một cử chỉ Chúa Giêsu dễ dàng khước từ vì không cần thiết, nhưng đó lại là một cử chỉ Ngài thực sự mong chờ bởi vì điều Ngài cần và chúng ta cũng cần là được yêu. Cuối cùng, chính bản thân Chúa Giêsu đã rửa chân cho các tông đồ ( Ga 3 ). Cử chỉ của Chúa Giêsu làm cho các môn đệ chưng hửng, ngạc nhiên, khó hiểu. Cử chỉ đó xem ra không cần thiết, vô ích, nhưng Chúa Giêsu lại nêu gương phục vụ ấy cho các môn đệ bắt chước, noi theo :” Thầy đã nêu gương cho anh em để cho anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em”. Chúa Giêsu đã lấy cử chỉ ấy làm dấu chứng huynh đệ bác ái, yêu thương:” Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”( Ga 15, 12 ). Cái mẫu phục vụ Kitô giáo mà Chúa Giêsu muốn mọi người noi theo, thực hiện là một sự phục vụ khiêm tốn. Khi cúi mình rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu không có gì khác ngoài nước và tình yêu đối với họ. Nhưng đó lại là hình bóng của phục vụ tối hậu mà Chúa sẽ thực hiện vài ngày sau đó trên thập giá :” Khi chịu đóng đinh trên thập giá, chịu trần truồng như lúc chào đời, Chúa Giêsu không còn gì hết, nhưng đó lại là sự diễn tả tình yêu cao vời, vô biên của Thiên Chúa”. Các môn đệ của Chúa đều được Chúa mời gọi đi con đường Chúa đã đi trước.

Chính cung cách ấy mà Maria đã đi theo Chúa Giêsu, Con Mẹ cho tới chân thập giá,cho tới cùng tận của tình yêu. Mẹ Maria đã tự do tới đó, đứng đó. Các sách Tin Mừng cho chúng ta cái cảm giác rằng cho tới giây phút Mẹ đang đứng dưới chân thập giá, Chúa Giêsu không nói gì với Mẹ Maria về giây phút cuối đời của Chúa, không mời Mẹ tới đó. Vả lại trước đó ít lâu, tuy Chúa Giêsu có nhấn mạnh đến sự cần thiết phải theo Người cho tới thử thách, nhưng khi giây phút nguy ngập tới, Chúa Giêsu lại để cho các môn đệ rời xa Người”. “ Nếu các anh tìm bắt Tôi thì hãy để cho những người này đi”( Ga 18, 8 ). Thật ra thì lúc đó dưới chân thập giá, chỉ có môn đệ Gioan và vài người phụ nữ đạo đức trong đó có thân mẫu Đức Giêsu. Lúc đó, đích thực Maria không còn gì để làm cho Con nữa nếu không nói được là Mẹ đã dâng hiến sự hiện diện quí báu của Mẹ, thinh lặng, nhưng trung thành của tình yêu mình cho Con, cho nhân loại.

Và như vậy Maria đã tới chân thập giá như một nữ tỳ vô dụng, khiêm tốn, như một người Mẹ gắn bó, như một người phụ nữ hết lòng tin tưởng nơi Con của mình.

3. MÙA CHAY HÃY BẮT CHƯỚC MẸ, HÃY NOI GƯƠNG MẸ

Mùa chay, Chúa mời gọi con người sám hối và tin vào Tin Mừng vì Nước Trời đã đến gần. Thống hối, quay trở về với Chúa, với anh em là sứ điệp tình yêu của Chúa Giêsu. Mẹ Maria, Mẹ của Thiên Chúa và Mẹ của Hội Thánh, của mỗi người có lòng tin đã sống những giây phút đau khổ của Chúa Giêsu. Mẹ đã đứng im lặng dưới chân thập giá để suy gẫm về cái chết nhục hình của Con Mẹ trên thập giá. Mẹ đã chấp nhận ý định của Thiên Chúa và dâng sự đau khổ của Mẹ lên Thiên Chúa để góp phần vào việc cứu rỗi nhân loại. Mẹ đứng đó hoàn toàn tự do, hoàn toàn thanh thản như Con Chiên bị đem đi giết. Mẹ đứng đó hiệp cùng Con Mẹ như của lễ toàn thiêu đẹp lòng Thiên Chúa nhất vì như Chúa Giêsu, Mẹ cũng hoàn toàn thốt lên:” Lạy Cha nếu có thể thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng đừng theo ý Con mà là theo ý của Cha”.

Mẹ mời gọi nhân loại, mời gọi mỗi người chúng ta:” Sống yêu thương và phục vụ “. Mẹ kêu mời chúng ta ăn năn sám hối và siêng năng cầu nguyện để được Chúa yêu thương, thứ tha và thi ân giáng phúc. Mẹ mời gọi mọi Kitô hữu hãy noi gương Mẹ, hãy bắt chước Mẹ để Chúa, Con Mẹ hài lòng.

Lạy Mẹ Maria, xin tăng thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn biết nói xin vâng như Mẹ trong mọi biến cố của đời sống thường ngày.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
 

langvuon

khoai nướng
#87
Ðề: Lịch Phụng Vụ tháng 3/2011

Chúa Nhật 27 Tm
Chúa Nhật thứ III Mùa Chay
Xh 17: 3-7 Tv 95: 1-2, 6-7, 8-9 Rm 5: 1-2, 5-8 1Ga 4: 5-15, 19-26, 39, 40-42

Thứ Hai 28 Tm
Thứ Hai sau Chúa Nhật thứ III Mùa Chay
2V 5: 1-15 Tv 42: 2-3; 43: 3-4 Lc 4: 24-30

Thứ Ba 29 Tm
Thứ Ba sau Chúa Nhật thứ III Mùa Chay
Dnl 25,34-43 Tv 25: 4-5, 6-7, 8-9 Mt 18: 21-35

Thứ Tư 30 Tm
Thứ Tư sau Chúa Nhật thứ III Mùa Chay
Dnl 4: 1, 5-9 Tv 147: 12-13, 15-16, 19-20 Mt 5: 17-19

Thứ Năm 31 Tm
Thứ Năm sau Chúa Nhật thứ III Mùa Chay
Hc 7: 23-28 Tv 95: 1-2, 6-7, 8-9 Lc 11: 14-23

nguồn: FatimaCompany
 

pehonhien98

Thành viên mới
#88
Ðề: Lịch Phụng Vụ tháng 3/2011

cam on ban nhe,cu cap nhat thong tin nhu the cho moi giao dan duoc bit ::113:
 

langvuon

khoai nướng
#89
Thứ Sáu 01 Tr
Thứ Sáu Đầu Tháng. Đền tạ Trái Tim Chúa Giêsu, mis.imp
Hs 14: 2-10 Tv 81: 6-8, 8-9, 10-11, 14 Mc 12: 28-34

Thứ Bảy 02 Tr
Thứ Bảy Đầu Tháng. Đền tạ Trái Tim Đức Mẹ, mis.imp
Hs 6: 1-6 Tv 51: 3-4, 18-19, 20-21 Lc 18: 9-14

Chúa Nhật 03 Tm
Chúa Nhật thứ IV Mùa Chay
1Sm 16: 1, 6-7, 10-13 Tv 23: 1-3, 34, 5, 6 Ep 5: 8-14 Ga 9: 1, 6-9, 13-17, 34-38

MÙA CHAY : MÙA PHỤC HỒI TÂM LINH

ĂN CHAY CHƯA PHẢI LÀ CHÍNH

Từ lâu, « Mùa Chay » đã trở thành một tên rất thông dụng trong Năm Phụng Vụ. Tên gọi này đúng, nhưng chưa đúng hẳn.

Đúng là vì suốt bao thể kỷ, trong nhiều tuần trước lễ Phục Sinh, các tín hữu đã ăn chay, nhiều khi rất nghiêm nhặt , có lúc ăn chay suốt tuần, chỉ trừ ngày Chúa Nhật.

Nhưng gọi là « Mùa Chay » thì cũng chưa thật đúng. Vì ăn chay không phải là chính chủ đích mà người Kitô hữu theo đuổi trong khoảng thời gian này.

Thực ra, ăn chay chỉ là một phương thế, một cách theo đuổi để thực hiện một điều cần thiết hơn.

Bằng chứng là hiện nay trong Mùa Chay, người tín hữu chỉ còn giữ chay có hai ngày : Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh.

CHỦ ĐÍCH CỦA MÙA CHAY

Chủ đích chính và không thay đổi của Mùa Chay là phục hồi và bồi dưỡng tâm linh…là chuẩn bị tâm hồn tín hữu đón Chúa Phục Sinh. Nói đúng hơn là chuẩn bị tín hữu tham dự trọn vẹn hơn vào mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô, giúp cho tín hữu thực hiện sự phục sinh tâm linh của chính mình.

Mùa Chay không có ý nghĩa tự thân. Nó lệ thuộc vào Lễ Phục Sinh, được lập ra vì Lễ Phục Sinh. Không có Lễ Phục Sinh thì cũng sẽ không có Mùa Chay.

Mùa Chay chỉ thực sự có ích nếu giúp ta hồi sinh từng bước, nâng cao phẩm chất đời sống tâm linh. Mùa Chay chỉ có ý nghĩa nếu truyền thêm sinh lực cho tâm hồn chúng ta, để khi chúng ta mừng Chúa sống lại, thì chính chúng ta cũng sống lại cùng với Chúa, cùng bước vào đời sống mới với Ngài.

Vì thế, trong thực chất, Mùa Chay là thời phục hồi và tăng cường sức sống tâm linh, dầu ăn chay nhiều hay ít, dưới hình thức này hay hình thức khác.

PHỤC HỒI VÀ BỒI DƯỠNG TÂM LINH THẬT CẦN THIẾT

Không thể có đời sống tôn giáo mà lại thiếu nỗ lực phục hồi và bồi dưỡng tâm linh. Nỗ lực này là điều kiện thiết yếu của đời sống kitô hữu.

Kinh nghiệm hiển nhiên cho thấy : trong mọi lãnh vực, thời gian và cuộc sống luôn làm tiêu hao, tàn phá mọi sự. Cùng với thời gian, cái gì cũng suy yếu dần, xuống cấp dần, lão hóa dần.

Vật chất tiêu hao : sông cạn đá món là quy luật tự nhiên.

Đời sống thân xác tiêu hao : cơ thể suy yếu, sức khỏe giảm sút, bệnh tật ngày càng nhiều thêm, nặng thêm.

Tình cảm của con người cũng tiêu hao : tình yêu ban đầu thắm thiết, nhưng rồi cứ phai dần, vơi dần. Dầu đã hẹn núi thề non, thế rồi cũng có lúc mối tình lụi dần, tắt dần…như đèn cạn dầu.

Bởi thế, trong bất cứ lãnh vực nào cũng có nhu cầu phục hồi, tân trang, nâng cấp…để ngăn chặn sự tiêu hao của thời gian.

Đời sống tâm linh cũng không thể khác được.

Trên đường đi theo Chúa rất dễ xảy ra hiện tượng tiêu hao, xuống cấp. Hiện tượng này có khi còn trầm trọng hơn trong các lãnh vực khác. Cám dỗ ngày càng tăng. Sức kháng cự ngày càng yếu. Lòng sốt sắng ban đầu suy giảm dần. Tội lỗi càng ngày càng tăng áp lực. Về mặt tâm linh, rất dễ trở thành người chết. Nếu chưa chết thì cũng đang lâm vào tình trạng hấp hối hoặc bại liệt.

Trong khi đó, Thiên Chúa lại chờ đợi chúng ta tăng trưởng, tiến tới, chứ không phải dậm chân tại chỗ hoặc thụt lùi về phía sau. Chúa Giêsu luôn bảo các môn đệ của Ngài : « Hãy theo Ta ». Càng ngày càng phải theo nhiều hơn. Theo con đường đi tới toàn thiện, trên đường thập giá, trên đường đưa tới phục sinh, ngang qua sự chết cho tỗi lỗi, khước từ con đường dễ dãi của một cuộc sống tầm thường.

Người kitô hữu là người đã sống lại cùng với Chúa Kitô. Vì thế, phải sống thật, sống mạnh mẽ, không sống vật vờ nửa tỉnh nửa mê, nửa sống nửa chết, chết nhiều hơn sống. Bởi thế, thánh Phaolô đã phải đánh thức các tín hữu của ngài : « Hãy chỗi dậy những ai ngủ mê, hãy chỗi dậy từ cõi chết. Chúa Kitô sẽ chiếu sáng trên ngươi ».

Để ra khỏi tình trạng ngủ mê, để sống lại từ cõi chết và tiến lên trên con đường phục sinh, không thể không phấn đấu và hoàn cải. Không có lối tắt để nên thánh.

NỖ LỰC MÙA CHAY

Hoán cải và phục hồi tâm linh là việc phải làm thường xuyên, mỗi ngày. Tuy nhiên, Mùa Chay là một trong những « lúc thuận tiện và giờ cứu độ ». Nỗ lực trên phải được tăng cường và nhân lên gấp bội.

Trong mùa hồng phúc này, mỗi người phải hồi tâm để xét lại tương quan của mình với Thiên Chúa, đối chiếu thực trạng của mình với ơn gọi mình phải hướng tới.

Cuộc chiến chống tội lỗi phải quyết liệt hơn. Nhất là phải cố gắng tháo gỡ những vướng mắc, giải tỏa những nút làm kẹt đường tới Thiên Chúa, nếu có.
 
Chỉnh sửa cuối:

langvuon

khoai nướng
#90
Ðề: Lịch Phụng Vụ tháng 4/2011

Thứ Hai 04 Tm
Thứ Hai sau Chúa Nhật thứ IV Mùa Chay
Is 65: 17-21 Tv 30: 2, 4, 5-6, 11-13 Ga 4: 43-54

Thứ Ba 05 Tm
Thứ Ba sau Chúa Nhật thứ IV Mùa Chay
Ed 47: 1-9, 12 Tv 46: 2-3, 5-6, 8-9 Ga 5: 1-3, 5-16

Thứ Tư 06 Tm
Thứ Tư sau Chúa Nhật thứ IV Mùa Chay
Is 49: 8-15 Tv 145: 8-9, 13-14, 17-18 Ga 5: 17-30
Kính thánh tử đạo Phaolô Lê Bảo Tịnh, Lm

Thứ Năm 07 Tr
Thứ Năm Đầu Tháng. Cầu cho các linh mục
Xh 32: 7-14 Tv 106: 19-20, 21-22, 23 Ga 5: 31-47
Kính thánh tử đạo Phêrô Lựu, Lm

Thứ Sáu 08 Tm
Thứ Sáu sau Chúa Nhật thứ IV Mùa Chay
Kn 2: 1, 12-22 Tv 34: 17-18, 19-20, 21, 23 Ga 7: 1-2, 10, 25-30

Thứ Bảy 09 Tm
Thứ Bảy sau Chúa Nhật thứ IV Mùa Chay
Hc 11: 18-20 Tv 7: 2-3, 9-10, 11-12 Ga 7: 40-53

Ngày 06 tháng 04
Thánh Phaolô LÊ BẢO TỊNH
Linh mục - (1793-1857)

Từ ẩn sĩ đến tử đạo

Khởi đầu là vị ẩn tu, kết thúc là vị tử đạo. Hai hình ảnh như có vẻ khác biệt nhau. Nhưng đối với thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh, điều quan trọng đâu có phải là hình ảnh, là lối sống, mà chính là NIỀM TIN: Thiên Chúa là tất cả. Lối sống có thể thay đổi nhưng niềm tin mới là nền tảng chính yếu. Chính niềm tin đó đã dẫn dắt cuộc đời Phaolô Tịnh, từ một vị ẩn sĩ trở thành một vị linh mục nhiệt thành truyền giáo, một giáo sư tận tụy và sau cùng đến phúc tử đạo vinh quang.

Rừng vắng và sứ mạng

Phaolô Lê Bảo Tịnh sinh năm 1793 tại xã Trinh Hà, huyện Hoàng Hoá, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, là con thứ ba trong gia đình công giáo. Năm 12 tuổi cậu vào ở với cha Duệ xứ Bạch Bát, sau ba năm cậu được cha gởi đi học tại chủng viện Vĩnh Trị (Nam Định). Trong chủng viện cậu là một chủng sinh gương mẫu. Trí khôn bình thường nhưng cậu hơn hẳn anh em về sự chăm chỉ, về tinh thần đạo đức, hãm mình, cậu ăn chay các ngày thứ sáu, đánh tội và nằm đất. Khuynh hướng sống khổ hạnh là bước đầu dẫn đến ý định ẩn tu của thày Tịnh.

Có thể nói Lê Bảo Tịnh là một con người mến yêu Thiên Chúa triệt để. Thày đã cương quyết hiến dâng cuộc đời cho Chúa. Thày đã chọn Chúa và thể hiện điều ấy cách trọn vẹn. Chính vì thế thày tích trữ cơm khô, âm thầm rời bỏ chủng viện vào sâu trong rừng vắng để có dịp cầu nguyện và kết hiệp mật thiết đối với Thiên Chúa bằng đời sống khắc khổ trong cô tịch.

Thế nhưng đâu phải ai cũng có quyền sống đạo đức theo ý riêng. Thiên Chúa mời gọi con người cộng tác Chúa vào công trình cứu chuộc của ngài, thì chính ngài xếp đặt công việc cho họ. Chính vì vậy Đức Cha Longer Gia đã chỉ thị cho các cha trong giáo phận: “Nếu thày Tịnh đến xưng tội, không linh mục nào được quyền giải tội, phải bảo thày đến gặp Đức Cha ngay”.

Và vị ẩn sĩ đạo đức ấy đã tìm ra ý Chúa qua vị Giám Mục. Một năm trời quen với rừng sâu, giờ đây thày phải từ giã để đón nhận những hy sinh mới, những công tác mà Giáo Hội đang cần đến thày.

Vị tông đồ đất lào

Để chuẩn bị cho những công tác lớn lao hơn, Đức Cha cho thày Tịnh về tiếp tục học thần học, lãnh các chức nhỏ, đồng thời tiếp tục dạy học. Đức Cha Havard Du, kế vị Đức Cha Gia, cử thày sang Macao để nhận những khoản trợ cấp cho giáo phận. Hai chuyến đi trong hai năm, đồng thời cũng là hai lần thoát chết khỏi tay cướp biển và giông tố.

Năm 1837, Đức Cha đề ra chương trình truyền giáo tại Lào, thày Tịnh đã hăng hái lên đường. Sau một năm hoạt động thấy việc tiến triển tốt đẹp, thày trở về giáo phận xin Đức Cha phái thêm người đi truyền giáo. Thế nhưng tình hình trong nước đã thay đổi. Thi hành lệnh vua quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh lúc đó ra lệnh cấm đạo gắt gao. Cha Mai Năm, ông Trùm Đích, ông Lý Mỹ bị bắt và tử đạo, chủng viện Vĩnh Trị phải đóng cửa, Đức Cha cha Du phải ẩn lánh và qua đời ngày 05-07-1838. Đức Cao chịu tử đạo không kịp nhận nhiệm vụ. Vì vậy đoàn truyền giáo ở Lào phải dừng lại và trở về nước, chuẩn bị nhận công tác mới.

Vào tù lần thứ nhất và lưu đày.

Đức Cha Retordd Liêu, người kế vị Đức Cha Du, cử thày Tịnh đi dạy giáo lý tân tòng tại làng Thạch Tổ, xứ Bích Trì, tỉnh Hà Nam. Cuối năm 1841, Lý trưởng làng Thạch Tổ đã rình bắt được thày Tịnh. Giáo hữu đem tiền nộp quan mong chuộc được thày, nhưng thày tỏ ra khí khái nói với quan: “Nếu chỉ có tiền mà tha thì tôi không muốn”.

Thế là thày Tịnh bị giải về Tuần phủ Hà Nam, rồi lên Hà Nội. Ở đâu con người mảnh khảnh ấy, với y phục thô sơ, luôn đi chân đất, cổ đeo gông nhưng tâm hồn chính trực và cương quyết. Các vị quan hùng hổ nhưng không thể nào khuất phục nổi. Họ chỉ còn cách là đệ án về kinh xin trảm quyết. Nhưng rất may, khi vua Thiệu Trị lên ngôi, bầu khí ác cảm với đạo đã giảm đi. Sáu lần quan đệ án vào kinh, cả sáu lần không được chấp thuận, để đến lần thứ bảy chuyển thành án lưu đày chung thân ở Phú Yên (Bình Định).

Trên đường lưu đày, người có thân hình mảnh mai nhưng tâm hồn cương nghị ấy, luôn chứng tỏ lòng trung thành quả cảm với chân lý đức tin mình đang theo. Thày đã mạnh liệt phản đối khi người ta gọi “Gia Tô tả đạo”, đồng thời giải thích với mọi người về tôn giáo của mình.

Thời gian phát lưu không lâu thì vua Thiệu Trị băng hà (04-11-1847). Vua Tự Đức lên kế ngôi và ban ân xá, giải phóng tù nhân. Trở về giáo phận trong niềm vui khôn xiết của nhiều người, thày Tịnh vâng lời Đức Cha lãnh chức linh mục, khi đã 56 tuổi. Khoảng một năm sau, vị tân linh mục được giữ chức giám đốc kiêm giáo sư chủng viện Vĩnh Trị. Nhờ trước đây đã từng là ân nhân chữa bệnh đau mắt cho quan Tổng Đốc Nam Định Nguyễn Đình Hưng, nên cha giám đốc đã xin được giấy phép cho chủng viện hoạt động một cách bán công khai, dưới hình thức một trường dạy chữ Nho và thuốc.

Chân dung cha Phaolô Tịnh

Thoạt nhìn người ta có thể nhận thấy Phaolô Tịnh là một linh mục có thân hình dong dỏng cao gầy guộc, dáng vẻ đạo mạo, khắc khổ. Nhưng chỉ những ai gặp gỡ cha mới nhận ra đó là một vị linh mục đầy lòng nhân ái, giản dị, khôn ngoan, từng trải. Có lẽ những bước thăng trầm đây đó cùng với số tuổi khá cao khi lãnh chức linh mục, đã ảnh hưởng tới nhiều cuộc đời tông đồ của cha. Ngài tận dụng thời giờ thật khít khao, cốt sao đạt được ích lợi tối đa. Trong những năm tháng đảm nhiệm chủng viện Vĩnh Trị với bao công việc, thế mà giám đốc vẫn thu xếp được thời giờ để viết lách. Ta có thể kể những tác phẩm của cha:

- Phúc âm dẫn giải

- Giáo lý đại cương

- Và Lục vấn lương tâm: gồm những lời khuyên thực hành để giúp xa lánh tội trọng và dọn mình chết lành.

Trong khi hướng dẫn chủng sinh, cha thường khuyên các thày phải giữ kỷ luật, vì chính cha đã có kinh nghiệm sâu sắc: Kỷ luật là ân nhân giúp thể hiện lòng mến Chúa, nâng đỡ đời tu. Đàng khác cha còn chú tâm huấn luyện chủng sinh về đời sống cầu nguyện. Theo cha một nhà truyền giáo mà không quý trọng việc cầu nguyện thì lời giảng sẽ không có sức thuyết phục. Lúc này, tuy không còn trực tiếp coi sóc các giáo hữu, nhưng cha Tịnh rất siêng năng giải tội, giúp đỡ các tâm hồn hòa giải với Chúa. Một khía cạnh khác trong đời cha Phaolô Tịnh là lòng yêu mến Thánh Giá. Bất cứ nơi nào cha đã từng sống, đều có bóng dáng của cây Thập Giá. Sau này, khi bị bắt các quan thấy cha có nhiều cây Thập Giá quá, liền kháo nhau: “Ông cụ này nghiện Thánh Giá”.

Đúng vậy, không phải cha “nghiện” Thánh Giá bằng cách dựng thánh giá khắp nơi, nhưng vì lòng tôn kính cuộc tử nạn Chúa Kitô, đồng thời ao ước sống cuộc đời Thánh Giá, mong muốn mình được góp phần vào dòng máu của Thày Chí Thánh đã đổ ra để cứu chuộc trần gian. Lòng yêu mến ấy đã bộc lộ qua nếp sống thật nhiệm nhặt, cả khi còn làm thày sống ẩn tu, cũng như khi làm cha giám đốc chủng viện. Bữa ăn thường nhật của cha là vài chén cơm với chút nước mắm và đĩa rau xanh. Cha thường ngủ nghỉ dưới đất, ít khi chịu nằm giường. Thân xác cha hao mòn, nhưng bên trong vẫn chứa đựng một tâm hồn mãnh liệt, một trí thông minh sắc sảo.

Cha sống nhiệm ngặt đến quên thân mình, nhưng lại lo lắng cho người khác. Cha thường thăm viếng, an ủi, ban các bí tích, giúp đỡ người nghèo, nhất là các bệnh nhân, kể cả những người bị bệnh nan y như phong cùi. Có thể nói cha Lê Bảo Tịnh đã tử đạo ngay trong cuộc sống, trước khi được phúc thực sự đổ máu vì đức tin trung kiên.

Bị bắt lần thứ hai

Năm 1857, hai cha Kỳ và Hảo về tổ chức lễ tại nhà thờ Phát Diệm. Dịp này, ngoài thánh lễ còn có những cuộc rước long trọng. Biến cố rầm rộ này bị báo cáo xuyên tạc với viên quan Ninh Bình rằng: “Cụ đạo khao quân”. Quan quân liền kéo về Phát Diệm vây bắt, nhưng hai cha Kỳ và Hảo đã về Vĩnh Trị rồi, nên họ gửi giấy yêu cầu quan Nam Định đi bắt hai linh mục đó. Quan Tổng đốc Nam Định Nguyễn Đình Hưng vẫn còn nhớ ân tình với cha Lê Bảo Tịnh (vị ân nhân đã chữa mắt cho mình), nên đã cố gắng ngăn cản nhưng không được. Kế hoạch vây bắt được ấn định vào ngày 27-02-1857 do quan phủ Nghĩa Hưng chỉ huy.

Trong khi đó, quan tổng đốc đã nhờ người báo tin cho cha Tịnh ở Vĩnh Trị, nhưng vì người đó bất ưng bị bệnh nặng không đi báo được, bên chủng viện Vĩnh Trị vẫn sinh hoạt bình thường khi quan quân vây kín làng. Sau mấy phút hội ý, Đức cha Liêu và các cha đồng ý chạy trốn, chỉ để một mình cha Tịnh ở lại đối phó, với hy vọng tránh được những tàn phá. Cha Tịnh bình tĩnh mời quan phủ Nghĩa Hưng và ông Phán Trứ vào phòng uống nước, rồi trình bày giấy phép của quan Tổng Đốc. Tuy nhiên vì trong nhà có nhiều đồ “quốc cấm” như sách La tinh, đồ lễ và nhiều vật dụng khác từ nước ngoài gửi đến, nên quan phủ cho lập biên bản, và yêu cầu cha Tịnh ra tỉnh để điều tra thêm.

Trước khi đi, cha Tịnh vào nhà thờ cầu nguyện và giã từ các chủng sinh, những người con yêu quý nhất của cha. Đức cha Liêu có tìm cách chuộc lại cha Tịnh trước khi bị giải lên tỉnh, nhưng không thành công. Đức cha liền cho người báo trước với quan Tổng Đốc để nhờ quan lo liệu. Hôm sau, ông Phán Trứ giải cha Tịnh ra tỉnh. Tờ giấy phép mà quan Tổng Đốc cấp cho cha Tịnh đả đưa ông vào thế kẹt. Các quan khác nghĩ ông đã nhận được một khoản tiền khá lớn.

Quan Tổng đốc lâm vào tình thế khó xử. Ông biết rõ cuộc đời, thân thế của cha Tịnh, thế mà chính quan Thượng Hưng lại là người hỏi cung cha. Trước tòa, quan không gạn hỏi gì cả, chỉ xin cha quá khóa thì sẽ tha về. Nhưng cha Tịnh với tư cách một linh mục làm sao có thể chấp nhận lời đề nghị ấy.

Năm ngày sau, cha Tịnh lại được đưa ra trước công đường. Cũng một câu hỏi và cũng một lòng son sắt đó. Khi được lệnh viết lại bản lý lịch, cha vẫn xác nhận mình là linh mục. Quan Thượng Hưng khuyên cha không nên viết thế, chỉ nên khai là giáo hữu chuyên dạy chữ nho và làm thuốc mới hy vọng thoát khỏi án chết. Đáp lại, cha cám ơn lòng tốt của quan, vẫn giữ y lời khai vì cho đó là một vinh dự lớn lao. Cha sẵn sàng chịu đựng tất cả là vì vinh dự ấy. Lần cuối cùng, quan Thượng Hưng tìm cách cứu gỡ vị ân nhân của mình. Chính tay ông viết bản án và điền thêm ở dưới: “Xét rằng Lê Bảo Tịnh đã ngoài 60 tuổi, chiếu theo luật nước, không nên xử tử những người già nua tuổi tác như thế, xin cứ giam ở Nam Định và cứ giữ ở đó là tiện nhất”.

Linh hồn tôi thuộc về Chúa.

Trong khi chờ đợi vua trả lời về bản án, cha Tịnh bị giam ở Trại Vệ. Với cha, 37 ngày sống tại đây là cơ hội để cha củng cố đức tin cho các anh em yếu đuối, tìm cách liệu cho họ lãnh được lương thực tinh thần cũng như những trợ giúp về vật chất. Nhờ đó, họ thêm can đảm làm chứng cho Chúa trong những giây phút bi thương nhất. Về phần cha, đây là dịp chuẩn bị lần cuối để xứng đáng với diễm phúc tử đạo mà cha hằng ao ước. Cha sửa soạn cho giờ phút đó một cách đều đặn bằng việc đọc kinh nguyện ngắm. Chính khi củng cố lòng can đảm nơi người khác, cũng là lúc cha củng cố lòng mình. Trong những ngày này, cha không thể nào quên được đoàn con thân yêu ở chủng viện Vĩnh Trị. Trước khi bị xử án 12 ngày, cha viết cho các chủng sinh một tâm thư rất cảm động và chan chứa những tư tưởng đạo đức.

Ngày 05.04.1857, án ra tới tỉnh, người hồi hộp nhất là quan Tổng đốc. Vua cải án giam thành án tử hình trảm quyết. Nhận được bản án, quan Thượng cố gắng một lần chót bằng cách khuyến dụ cha Tịnh xuất giáo. Nhưng làm sao cha lại chấp nhận ? Cả một đời đã tận tụy với Thiên Chúa, cả một đời khát khao mong chờ diễm phúc lớn lao này, đến nay sắp được toại nguyện, lẽ nào lại bỏ đi ? Cha từ tốn đáp lại lời quan:

“Tôi xin chân thành cám ơn quan, vẫn luôn có lòng tốt tìm cách cứu tôi. Thân xác tôi ở trong tay quan, xin làm khổ nó tùy ý, tôi rất vui lòng, không oán than gì. Nó chết đi nhưng mai ngày sẽ sống lại trong vinh quang. Còn linh hồn tôi là của Thiên Chúa, không có gì làm tôi hy sinh nó được, không ai có thể lay chuyển lòng tin tưởng của tôi. Đạo Thiên Chúa là chính đạo, là đạo thật, tôi yêu mến và giữ đạo ấy từ thuở bé, và dù tôi có chết cũng chẳng bỏ được”.

Lời khẳng khái ấy phát sinh từ quyết định thật can đảmvà sáng suốt. Quyết định lựa chọn cái chết một cách hiên ngang, vì tin chắc rằng mình sẽ được sống muôn đời (Ga 12, 25).

Vĩnh phúc ấy, cha Phaolô Lê Bảo Tịnh đã đạt được ngày 06.04.1857 tại pháp trường Bảy Mẫu (Nam Định) trong lời từ biệt gởi tới mọi người: “Anh em ở lại bình an, chịu khó giữ đạo và can đảm bền vững, đừng sợ chết nhé”.

Đức Thánh Cha Piô X đã suy tôn cha Phaolô Lê Bảo Tịnh lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Ngày 07 tháng 04
Thánh Phêrô NGUYỄN VĂN LỰU
Linh mục - (1812-1861)

Hy sinh vì sứ vụ

Đọc lại toàn bộ lịch sử thời tử đạo Việt Nam, hầu như trong bất cứ cuộc tử đạo nào cũng thấy bóng dáng một linh mục bản quốc. Dầu hoàn cảnh khó khăn hiểm nguy, các vị đã can đảm hiện diện, hoặc hóa trang vào thăm giáo hữu ở trong tù, ban bí tích hòa giải và trao Mình Thánh Chúa; hoặc ít ra kín đáo đón các tín hữu bị đưa ra pháp trường và bí mật giải tội cho họ. Linh mục Phêrô Nguyễn văn Lựu là trường hợp tiêu biểu cho sự kiện này. Cha bị bắt khi đang lén vào làm việc mục vụ trong ngục.

Mục tử săn sóc đàn chiên

Phêrô Nguyễn văn Lựu sinh năm 1812 tại Gò vấp, Gia Định (Sài Gòn). Lớn lên cậu dâng mình cho Chúa, vào chủng viện và được gởi đi học ở Pénang, rồi được thụ phong linh mục. Cha được bổ nhiệm phụ trách nhiều giáo xứ như Mặc Bắc, Sa Đéc, Mỹ Tho. Cha thực thi nhiệm vụ một cách rất chu đáo, Cha chú tâm nhiều đến việc giảng dạy giáo lý, quan tâm đến từng gia đình trong sứ đạo, thường xuyên thăm viếng khuyên bảo họ. Các giáo hữu quý mến và sẵn sàng nghe theo lời của cha, ngay cả khi bị cha khiển trách lỗi lầm của họ. Cha Lựu chỉ mắc một tật nhỏ nhưng đã bỏ được. Vì gặp gỡ với dân đồng bằng Cửu Long, cha thường uống rượu với họ. Một hôm đang đi trên thuyền, cha mời linh mục Thuyết ở thuyền khác qua làm vài “xị”, nhưng vị này nhất mực từ chối: “Tôi không uống vì nhiều lý do, uống rượu vừa tốn kém, vừa mất tỉnh táo, lại chẳng phải là gương tốt cho tín hữu”. Ngay lúc đó cha Lựu đã ném ngay chai rượu xuống sông và nói: “Từ hôm nay tôi không uống rượu nữa”. Và cha đã trung thành giữ lời hứa đó.

Đầu năm 1853, cha Lựu thoát chết một cách may mắn. Khi đó, cha đang là cha sở họ Mặc Bắc và vừa được bổ nhiệm đến nơi khác thì quan trấn phủ Vĩnh Long, theo mật báo, đến vay bắt cha. Cha Philipphê Phan văn Minh và ông trùm Giuse Lựu bị bắt thế mạng.

Năm 1860, cha Phêrô Lựu đang phụ trách xứ Ba Giồng thì có lệnh quan trấn bắt tất cả các tín hữu có tên tuổi ở Xoài Mút và Ba Giồng (gần Mỹ Tho) đưa về giam tập trung ở tỉnh. Vì thương anh em bổn đạo cha thường cải trang vào thăm viếng, ủy lạo.

Các tín hữu coi cha như thiên thần Chúa gởi đến đem cho họ lương thực Thánh thể, ân sủng và bình an. Để thực hiện điều này, có lúc cha phải bỏ tiền mua chuộc lính canh và thận trọng lời nói với cấp trên của họ.

Gương sáng trong ngục tối

Tháng 12.1860, một hôm trong lúc đang gặp các tín hữu trong tù, vô tình cha để một lá thư chìa ra miệng túi áo. Viên quan thanh tra trại giam đi qua trông thấy liền ra lệnh bắt giam. Biết không thể giấu được nữa, cha liền nhận mình là linh mục. Thế là cha được chia sẽ đòn đánh, tra khảo, dọa nạt chung với các tín hữu của mình. Từ nay cha không chỉ an ủi, động viên anh em bằng lời nói suông nữa, mà bằng chính mẫu gương cuộc đời của mình: Bất chấp mọi đau đớn sỉ nhục, nhất quyết giữ vững niềm tin, chứ không bỏ đạo. Các quan bắt cha xuất giáo, cha trả lời: “Đạo đã thấm nhập vào trong xương tủy, tôi làm sao bỏ được. Vả lại một người giáo hữu thường, một thày giảng còn không có quyền bỏ đạo, huống nữa tôi đây là đạo trưởng”.

Nhận thấy mọi hình khổ đều vô ích, quan tỉnh Mỹ Tho liền lên án trảm quyết cha. Ngày 07.04.1861, quân lính dẫn vị chứng nhân đức tin ra khỏi cửa thành độ một cây số, rồi chém cha ngay bên vệ đường. Viên đao phủ vì mê tín, sợ người đã chết nhập vào mình, nên vừa chém xong liền quăng dao chạy trốn.

Thi hài vị tử đạo được các tín hữu thu lại đem về an táng chung với gông cùm và một chiếc bình đất vấy máu ngài. Về sau hài cốt của cha được dời đến đặt tại bàn thờ chính thánh đường Mỹ Tho. Năm 1960, hài cốt ngài lại được cải táng về nhà thờ chính tòa Sài gòn .

Ngày 02.05.1909, Đức Thánh Cha Piô X đã suy tôn cha Phêrô Nguyễn Văn Lựu lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
 

langvuon

khoai nướng
#91
Ðề: Lịch Phụng Vụ tháng 4/2011

Chúa Nhật 10 Tm
Chúa Nhật thứ V Mùa Chay
Ed 37: 12-14 Tv 130: 1-2, 3-4, 5-6, 7-8 Rm 8: 8-11 Ga 11: 1-45 12: 3-7, 17, 20-27, 33-45

Thứ Hai 11 Tm
Thứ Hai sau Chúa Nhật thứ V Mùa Chay
Lòng Thương Xót Chúa
Đn 13: 1-9, 15-17, 19-30, 33-62 13: 41-62 Tv 23: 1-3, 3-4, 5, 6 Ga 8: 1-11 8: 12-20

Thứ Ba 12 Tm
Thứ Ba sau Chúa Nhật thứ V Mùa Chay
Đn 21: 4-9 Tv 102: 2-3, 16-18, 19-21 Ga 8: 21-30

Thứ Tư 13 Tm
Thứ Tư sau Chúa Nhật thứ V Mùa Chay
Thánh Martin I, Ghtđ
Đn 3: 14-20, 91-92, 95 3: 52, 53, 54, 55, 56 Ga 8: 31-42

Thứ Năm 14 Tm
Thứ Năm sau Chúa Nhật thứ V Mùa Chay
St 17: 3-9 Tv 105: 4-5, 6-7, 8-9 Ga 8: 51-59

Thứ Sáu 15 Tm
Thứ Sáu sau Chúa Nhật thứ V Mùa Chay
Hc 20: 10-13 Tv 18: 2-3, 3-4, 5-6, 7 Ga 10: 31-42

Thứ Bảy 16 Tm
Thứ Bảy sau Chúa Nhật thứ V Mùa Chay
Ed 37: 21-28 Hc 31: 10, 11-12, 13 Ga 11: 45-57

Ngày 11 tháng 04
Kính Lòng Thương Xót Chúa

Chúa Nhật thứ 2 Mùa Phục Sinh, Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolo đệ Nhị đã kêu gọi mọi Ki tô hữu kính trọng thể Lòng Thương Xót Chúa theo như chính Lời của Chúa Giê su khi hiện ra cùng thánh nữ Fautina người Balan: " Nếu linh hồn nào tôn sùng bức ảnh này, ta sẽ không để cho linh hồn đó phải hư mất.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã quyết định các tín hữu có thể được hưởng ơn toàn xá trong ngày Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa vào Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh. Quyết định trên đây được công bố trong sắc lệnh của Tòa Ân Giải Tối Cao đăng trên báo Quan Sát Viên Rôma của Tòa Thánh.

Sắc lệnh khẳng định rằng ơn toàn xá được ban với những điều kiện thường lệ là xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha cho những tín hữu nào trong ngày Chúa Nhật thứ hai sau Lễ Phục Sinh tức là Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa tại bất kỳ nhà thờ nào có lòng quyết tâm từ bỏ mọi quyến luyến tội lỗi kể cả tội nhẹ và tham dự vào các việc đạo đức tôn vinh lòng từ bi Chúa hay ít là đọc Kinh Lạy Cha và Kinh Tin Kính cùng với sự kêu cầu Chúa Giêsu từ bi trước sự hiện diện của Mình Thánh Chúa được trưng bày công khai hoặc giữ trong nhà tạm.

Ngày 13 tháng 04
THÁNH MARTINÔ I
Giáo hoàng, tử đạo

Trong ca hiệp lễ, lễ thánh giáo hoàng hay giám mục có viết:” Lạy Chúa, Chúa biết rõ mọi sự, Chúa biết con thương Chúa”( lời của thánh Phêrô). Thánh Mác-ti-nô I là vị giáo hoàng đã kiên trung đổ máu đào làm chứng cho Chúa phục sinh vì Người yêu mến Chúa.

THÁNH MÁC-TI-NÔ I :

Ngay trong ca nhập lễ, ta đọc thấy:’’Chúa đã lập với vị thánh này một giao ước bình an, đặt Người làm thủ lãnh và ban cho Người chức tư tế, tồn tại đến muôn đời”( Hc 45, 3
0 ). Thánh Mác-ti-nô sinh tại Todi miền Ombrie, nước Ý trong một gia đình đạo đức. Ngay từ nhỏ, thánh nhân đã hấp thụ một nền giáo dục tốt về mọi mặt. Vì thế, vào năm 649, ngay những ngày đầu tiên, thánh nhân ngự trên Ngai Giáo Hoàng, Ngài đã cố gắng thuyết phục các anh em lạc giáo, bè rối và ly giáo, nhất là nhóm ly khai Phaolô đệ Constantinople được Hoàng Đế Constance bao che, đỡ đầu, đang hoành hành và lan tràn khắp nơi. Để làm công việc hết sức khó khăn, đòi hỏi can đảm, hăng say và đầy cương quyết, thánh Mác-ti-nô I đã triệu tập công đồng chung từ ngày 5 tới ngày 31 tháng 10 năm 649, gồm 500 giám mục để lên án bọn lạc giáo và ly giáo. Đang khi công đồng chung họp, Hoàng Đế Constance sai Olympius tới để đuổi Đức Giáo Hoàng và giải tán công đồng. Tuy nhiên, ý Chúa rất nhiệm mầu, Olympius bị bệnh chết cách thảm thương. Constance không chịu dừng bước, Hoàng Đế lại sai Théodore Calliopas đến tiếm chiếm đền thờ Latran và cung điện của Đức Thánh Cha, rồi bắt Ngài giam ở đảo Naxos năm 653, để sau này đưa về Constantinople. Thánh nhân bị bỏ tù ở Constantinople, bị tra tấn, khinh bỉ, ngược đãi vì danh Chúa Giêsu.

THIÊN CHÚA TÔN VINH NGƯỜI:

Thánh vịnh 112,1 có viết:” Hạnh phúc thay, người kính sợ Chúa, những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban” “ Giữa tối tăm bừng lên một ánh sáng, chiếu rọi kẻ ngay lành: đó là người từ bi nhân hậu và công chính”( Tv 112, 4 ). Thánh Mác-ti-nô I đã can đảm hiến dâng cuộc đời mình trong hy tế thập giá với Đức Kitô. Thánh nhân, sau đó bị đầy qua Hy Lạp, ở tại Chersonèse. Thiên Chúa đã cất Người về với Ngài vào năm 654, đúng như lời thánh vịnh viết :” Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong vui sướng…”. Thánh nhân đã ra đi trong nước mắt, nhưng đã về trong hân hoan, hạnh phúc. Thiên Chúa đã thưởng Ngài vì Ngài đã yêu đến hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu như Chúa Giêsu( Ga 15, 13 ).

Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã cho thánh Giáo Hoàng Mác-ti-nô tử đạo, được can đảm không lùi bước trước lời đe dọa, cũng chẳng nao núng khi chịu cực hình. Xin cho chúng con được kiên cường bất khuất để đương đầu với nghịch cảnh trong cuộc sống trần gian( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Mác-ti-nô, giáo hoàng, tử đạo).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
 

langvuon

khoai nướng
#92
Ðề: Lịch Phụng Vụ tháng 4/2011

Chúa Nhật 17 Đ
Chúa Nhật Lễ Lá
Is 50: 4-7 Tv 22: 8-9, 17-18, 19-20, 23-24 Pl 2: 6-11 Mt 26: 14; 27: 66 27: 11-54

CHÚA NHẬT LỄ LÁ

Với Lễ Lá hôm nay, chúng ta bắt đầu tuần lễ quan trọng nhất của Năm Phụng Vụ gọi là Tuần Thánh. Trong Tuần Thánh, chúng ta cử hành cuộc khổ nạn, sự chết và nhất là sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, Ðấng Cứu Thế. Dầu cho với cái nhìn chính trị, xã hội của con mắt người đời, việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua, là một việc có tính cách gây rối chính trị, vì đế quốc Rôma đang cai trị và Hêrôđê đang làm vua. Nhưng Chúa Giêsu, Người biết rõ việc Người làm. Trước mặt Philatô, Người tuyên bố rõ ràng: "Tôi là Vua nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này".

Vậy Phụng vụ Lễ Lá có thể gợi lên cho chúng ta ba ý nghĩa. Trước tiên Chúa nhật lễ Lá là việc tưởng niệm cuộc vào thành Giêrusalem long trọng của Chúa Giêsu trước khi Người chịu khổ hình và chết. Biến cố đó cho chúng ta thấy Chúa Giêsu biết rằng giờ của Người đã đến, biết rằng Người phải làm gì và Người đã tự nguyện bước vào cái chết sinh ơn cứu độ, như hạt lúa miến đã chết đi để sinh sự sống mới. Người tự hiến mình để chu toàn thánh ý của Chúa Cha. Vì thế trước đó nhiều lần, những người Do Thái chống đối lập mưu để giết Người, như ném đá Người hoặc xô Người xuống vực thẳm, nhưng họ không làm được việc gì, vì giờ của Người chưa đến. Và cũng đã nhiều lần dân chúng hợp lại định tôn phong Người lên làm vua, nhưng Người đã lẫn trốn sang nơi khác cũng chỉ vì giờ của Người chưa đến.

Ý hướng thứ hai của lễ Lá là ngày lễ để tôn kính Chúa Kitô là Vua. Ðây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế của Người, Chúa Giêsu đồng ý để cho dân chúng tung hô vạn tuế Người là Vua: "Hoan hô chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời". Người vào Giêrusalem, thành của vua cả trong phong cách đế vương, và chính vì phong cách đế vương này mà Người đã bị kết án tử hình. Bản án của Người được viết bằng ba thứ tiếng, Do Thái, La Tinh và Hy Lạp, "Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái". Vì thế, dầu cho Người bị kết án tử hình bằng một hình khổ dã man và nhục nhã, đóng đinh chân tay căng thây trần truồng trên thập giá, nhưng các sách Phúc Âm đều ghi đậm nét vẻ vương giả của Người để khai mào một vương quốc mới. Vương quốc của sự thật và sự sống, vương quốc của yêu thương và an bình như Người đã nói trước mặt Philatô: "Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng tôi". Vậy Chúa nhật lễ Lá cho chúng ta một cơ hội nữa để tuyên xưng niềm tin của chúng ta vào Vua các vua, Vua cả trời đất, nhất là Vua của mọi cõi lòng.

Với ý nghĩa thứ ba, Chúa nhật lễ Lá nhắc cho chúng ta biết sống trên đời là đối đầu với đau khổ, vì lễ Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chuẩn bị chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Người trên đồi Canvê. Khi chấp nhận bằng lòng vác thập giá mình mà theo chân Chúa Giêsu, đó là chúng ta cũng chia sẻ gánh nặng của Người, noi gương Người để vác thập giá, nhưng điều quan trọng là không phải vác đi trong than khóc mà trong hy vọng. Vì với Chúa Giêsu, đau khổ và chết chóc không dồn con người vào ngõ bí, mà là dẫn đưa đến vinh quang của ngày sống lại.

Hôm nay trong cái nghịch lý của Lễ Lá, vị Vua của chúng ta tiến lên, vị Vua đã bênh vực nhân vị của con người, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác như tinh thần của những ai đến cùng Người. Vị Vua đó đã thu, đã hút tất cả những đau khổ của thể xác và tinh thần của con người vào chính bản thân mình, để chết đi một lần cho tất cả và đã mở ra cánh cửa vào chốn trường sinh. Ðó là niềm hy vọng của chúng ta.

Ðể có việc làm cụ thể trong tuần này, chúng ta sẽ tìm cách tế nhị giúp cho một người đang gặp khó khăn vật chất hoặc đau buồn tinh thần, để họ lấy lại được niềm hy vọng. Và noi gương Chúa Giêsu nơi vườn cây Dầu, khi Người cầu nguyện: "Lạy Cha nếu có thể được, xin cất chén đắng này xa Con, nhưng xin đừng theo ý Con một theo ý Cha mà thôi", chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta biết vui lòng vâng phục thánh ý Chúa, dầu lắm khi chúng ta không hiểu được tại sao.

nguồn: FatimaCompany
 

langvuon

khoai nướng
#93
Ðề: Lịch Phụng Vụ tháng 4/2011

Thứ Hai 18 Tm
Thứ Hai Tuần Thánh
Is 42: 1-7 Tv 27: 1, 2, 3, 13-14 Ga 12: 1-11

Thứ Ba 19 Tm
Thứ Ba Tuần Thánh
Is 49: 1-6 Tv 71: 1-2, 3-4, 5-6, 15, 17 Ga 13: 21-33, 36-38

Thứ Tư 20 Tm
Thứ Tư Tuần Thánh
Is 50: 4-9 Tv 69: 8-10, 21-22, 31, 33-34 Mt 26: 14-25

Thứ Năm 21 Tr
Thứ Năm Tuần Thánh
Kỷ niệm Chúa Giêsu lập Phép Thánh Thể
Thánh Anselm, Gmtsht
Xh 12: 1-8, 11-14 Tv 116: 12-13, 15-16, 17-18 1 1Cor 11: 23-26 Ga 13: 1-15

Kỷ niệm Chúa Giêsu lập Phép Thánh Thể
Thứ Năm Tuần Thánh

Trong bầu khí linh thiêng trang trọng của buổi chiều hôm nay, Hội Thánh tưởng niệm hai hành vi cao cả Đức Giêsu đã làm trước khi đi chịu chết: (1) Rửa chân cho các môn đệ; (2) Bữa Tiệc Thánh Thể đầu tiên.

Hôm nay Đức Giêsu đi vào giờ của Người, giờ định mệnh, với tất cả ý thức sáng suốt và quả cảm. Người biết Người sẽ chết, nhưng là một cái chết tự nguyện để tuân hành trọn vẹn thánh ý Chúa Cha, và là một cái chết vô tội để cứu chuộc toàn thể loài người. Hai hành vi Đức Giêsu làm (rửa chân; lập Bí Tích Thánh Thể) đều nói lên ý tưởng đó. Nhưng cả hai hành vi ấy đều phát đều được thực hiện “chỉ vì yêu”. Đây là tình thương vô bờ bến của Đức Giêsu đối với nhân loại, đối với các môn đệ, đối với từng con người. Đúng y như câu mở đầu của bài Tin Mừng cho thấy: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1) và lời tuyên bố của Đức Giêsu sau đó: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).

1. Rửa chân

Trong bầu khí linh thiêng và yêu thương của Bữa tiệc Vượt Qua, Đức Giêsu đã đi rửa chân cho các môn đệ. Đây là hành vi mà ngay người nô lệ Do-thái cũng không phải làm cho ông chủ Do-thái. Chỉ nô lệ ngoại quốc mới phải rửa chân cho một người chủ Do-thái. Các môn đệ không phải là chủ, Đức Giêsu lại không phải là nô lệ ngoại quốc! Ông Phêrô đã thay mặt anh em nêu thắc mắc. Đức Giêsu đã trả lời: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu” (Ga 13,7). Khi “cởi áo ra” để chuẩn bị rửa chân là Đức Giêsu sống trước cái chết của mình, như người mục tử “bỏ mạng” vì đàn chiên. Khi Người “mắc áo lại” là Người sống trước cuộc Phục Sinh của Người, như Người đã nói: “Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10,18).

Chiều hôm nay, Đức Giêsu ra tay cứu thế; lễ Vượt Qua sắp bắt đầu. Người cần phải thanh tẩy các môn đệ. Không ai tự thanh tẩy mình được. Đức Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ, nghĩa là báo trước cái chết và sự sống lại của Người, để mọi việc ăn năn của chúng ta luôn nhận được ơn tha thứ.

Nhưng hành vi này cũng là một hành vi diễn tả tình bác ái huynh đệ. Đức Giêsu đã làm như thế là để cho các môn đệ một tấm gương về cách sống trong Họi Thánh. Chính vì thế hôm nay Họi Thánh muốn người đứng đầu cộng đoàn tự mình thực hiện nghi lễ rửa chân. Xin anh chị em cầu nguyện cho các linh mục, các chủ chăn, những người lãnh đạo cộng đoàn trở thành những người phục vụ chân chính. Xin anh chị em cũng tha thứ cho các vị vì bao lần không có tâm tình và thái độ phục vụ cho đủ: làm linh mục là một ơn nhưng-không Chúa ban để làm người phục vụ, nhưng người ta cũng có thể coi đó là một đặc quyền để khẳng định vị trí trên trốc, mà đòi hỏi được phục vụ. Xin anh chị em cùng chia sẻ trách nhiệm xây dựng cộng đoàn giáo xứ hay các cộng đoàn tu trì thành gia đình hiệp nhất yêu thương, với người lãnh đạo anh chị em, nhờ cùng phục vụ khiêm tốn.

2. Lập Bí Tích Thánh Thể

Đức Giêsu đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể trong khuôn khổ lễ Vượt Qua, Tiệc Giao Ước. Đây là nghi lễ tưởng niệm nhắc Thiên Chúa nhớ lại lòng Người thương xót để tiếp tục cứu độ. Đây cũng là nghi lễ tưởng niệm nhắc dân nhớ lại các hồng ân đã nhận để cảm tạ, ngợi khen Thiên Chúa và tuân giữ mọi điều lệ của Giao ước cho trung thành. Đây cũng là nghi lễ hiện tại hóa Giao ước tình yêu Thiên Chúa đã ký kết với Dân Người.

Trong bí tích này, khi Đức Giêsu nâng tấm bánh và chén rượi lên mà nói: “Đây là Mình Thầy … Đây là Máu Thầy”, Người thật sự ban Thịt và Máu Người cho chúng ta. Nhưng trong ngôn ngữ Do-thái của Đức Giêsu và của thánh Phaolô thời ấy, “thân thể/mình” không chỉ là một phần của con người, cùng với linh hồn và trí tuệ. “Thần thể/mình” là trọn vẹn cuộc đời của Đức Giêsu với mọi yếu tố vui buồn sướng khổ, thành công thất bại, còn “máu” là một biến cố, là cái chết. Đức Giêsu đã dùng Bí Tích Thánh Thể để làm cho các môn đệ được kết hợp với Người và kết hợp với nhau, Người đã dùng Bí Tích Thánh Thể để làm nên Họi Thánh như thế đó. Thánh Phaolô đã hiểu điều đó khi viết: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Ki-tô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cr 10,16-17). Tuy nhiên, khi Đức Giêsu bảo các môn đệ “hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, là Người muốn các môn đệ, là hình ảnh Họi Thánh, hãy làm ra Bí Tích Thánh Thể liên tục để Đức Giêsu lại tái hiện, giúp mọi người cùng chết để cùng sống lại và về với Chúa Cha. Lý do là vì đã cùng hiệp thông với Đức Giêsu trong lời truyền phép: “Đây là Mình Thầy”, chúng ta cũng phải hiến dâng cuộc sống vì anh chị em, đã hiệp thông với Đức Giêsu mà nói: “Đây là Máu Thầy”, chúng ta cũng phải hiến dâng cả cái chết vì anh chị em mình. Qua hành vi hiến dâng cuộc sống và cái chết ấy, tự nguyện, trong sự hiệp thông với Đức Giêsu, chính Người tháo gỡ ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và cho ta đi vào cuộc sống mới. Tuy nhiên, nếu chúng ta nhất định chọn đi theo con đường riêng của chúng ta, Đức Giêsu chẳng thể làm gì để ngăn cản chúng ta, như Người đã không ngăn cản Giuđa khi ông rời phòng tiệc để đi vào trong đêm tối (Ga 13,30), “đêm tối” vì không còn hiệp thông với Đức Giêsu là ánh sáng cho trần gian, “đêm tối” vì không còn hiệp thông với anh chị em.

Giờ đây chúng ta sắp cử hành tất cả những công việc trọng đại ấy. Xin Đức Giêsu giúp chúng ta từ bỏ con người cũ trong nghi thức rửa chân này, để tiến sang kết hợp mật thiết hơn với Người trong mầu nhiệmThánh Thể, hầu sau đó, ta sống cuộc đời mới trong tình yêu thương huynh đệ, trong nỗ lực phục vụ khiêm tốn mỗi ngày.

FX Vũ Phan Long, OFM

Ngày 21 tháng 04
Thánh Anselm

(1033-1109)

Là một thanh niên lãnh đạm với tôn giáo, Thánh Anselm đã trở nên một trong những nhà lãnh đạo và thần học gia vĩ đại của Giáo Hội. Ngài có danh xưng "Ông Tổ Phái Kinh Viện" vì những cố gắng phân tích và làm sáng tỏ các chân lý đức tin qua sự hỗ trợ của lý lẽ.

Thánh Anselm sinh trong một gia đình quyền quý ở Aoust, thuộc Piedmont. Ngài được người mẹ đạo đức chăm sóc và dạy dỗ về giáo lý, và ảnh hưởng tốt đẹp ấy đã kéo dài suốt cuộc đời ngài.

Khi 15 tuổi, Anselm muốn gia nhập một đan viện, nhưng bị từ chối vì người cha phản đối. Sau thời gian mười hai năm sống trong sự thờ ơ tôn giáo và theo thói đời, sau cùng ngài đã trở thành một đan sĩ như lòng mong ước. Ngài gia nhập đan viện Bec ở Normandy, ba năm sau ngài được bầu làm đan viện trưởng, và 15 năm sau ngài được bầu làm viện phụ.

Ðược coi là một nhà tư tưởng độc lập và độc đáo, Ðức Anselm được mọi người thán phục vì sự kiên nhẫn, hiền hòa và tài giảng dạy của ngài. Quả thật, ngài hiểu biết nhiều về thực chất và đam mê của con người đến độ dường như ngài đọc được tư tưởng và hành động của họ, bởi đó ngài nhìn thấy các nhân đức cũng như tật xấu của họ và khuyên bảo họ một cách thích hợp. Dưới sự lãnh đạo của ngài, Ðan Viện Bec trở nên trường đào tạo các đan sĩ, có ảnh hưởng đến các tư duy triết học và thần học thời ấy.

Trong những năm này, theo lời yêu cầu của cộng đoàn, Ðức Anselm bắt đầu công bố các công trình thần học của ngài, có thể sánh với các văn bản của Thánh Augustine. Công trình nổi tiếng nhất của ngài là cuốn Cur Deus Homo ("Tại Sao Thiên Chúa Làm Người").

Khi 60 tuổi, ngài được bổ nhiệm làm Ðức Tổng Giám Mục của Canterbury vào năm 1093, trái với ý muốn của ngài. Việc bổ nhiệm ngài, lúc đầu bị vua nước Anh là William Rufus chống đối nhưng sau đó phải chấp nhận. Rufus cố chấp từ chối cộng tác với các nỗ lực cải cách Giáo Hội.

Sau cùng Ðức Anselm phải đi lưu đầy cho đến khi Rufus từ trần năm 1100. Ngài được gọi về nước Anh bởi Henry I, là em và là người kế vị Rufus. Tuy nhiên, Ðức Anselm lại bất đồng với Henry về việc nhà vua nhúng tay vào các vấn đề của hàng giám mục, do đó ngài lại phải đi lưu đầy ba năm ở Rôma.

Không chỉ lưu tâm đến hàng quý tộc, Ðức Anselm còn để ý và lo lắng cho người nghèo. Ngài là người đầu tiên trong Giáo Hội chống đối việc buôn nô lệ. Và ngài đã được Hội Ðồng Quốc Gia Westminster thông qua đạo luật cấm buôn bán con người.

Ngài từ trần ở Canterbury, Anh Quốc năm 1109, và được phong thánh năm 1494.
 

langvuon

khoai nướng
#94
Ðề: Lịch Phụng Vụ tháng 4/2011

Thứ Sáu 22 Đ
Thứ Sáu Tuần Thánh
Kỷ niệm cuộc khổ nạn thập giá của Chúa Giêsu
Is 52: 13; 53: 12 Tv 31: 2, 6, 12-13, 15-16, 17, 25 Dt 4: 14-16; 5: 7-9 Ga 18: 1; 19: 42

THỨ SÁU TUẦN THÁNH

Như thế là những thượng tế,biệt phái và luật sĩ đã thành công theo cái nhìn trần tục của họ : họ đã đóng đinh được Chúa Giêsu .Vâng, những thượng tế và ngay cả nhiều người Do Thái lúc đó đã mở cờ trong bụng, đã ăn mừng vì Giêsu người ta gọi là ĐẤNG CỨU THẾ đã chết ! Nếu nhiều người thời đó và ngay cả ngày nay đã có những suy nghĩ,đã có cái nhìn về Chúa Giêsu như thế: Họ đã lầm hay nói cách nôm na hơn họ đã u tối thật sự vì cái chết của Chúa Giêsu theo ý Chúa Cha đã làm cho Ngài được vinh quang, chiến thắng . Chết mới nói lên lời .Chết mới mở ra sự sống mới. Bản án của Chúa Giêsu mà dân chúng thời đó bị mua chuộc,bị xúi giục la ó :đóng đinh Chúa vào thập giá vẫn muôn đời còn đó và bản án cho người công chính vô tội mà Philatô tuy biết vì ghen ghét ,họ đã trao nộp Chúa Giêsu cho Ông sẽ đời đời hằn sâu trên mặt Philatô vì Ông đã hèn nhát, thiếu bản lãnh để nói ít nhất là một câu cho

Chúa Giêsu : Người vô tội .

I . Hạng người đã không gặp Chúa : Đám đông người qua đường . Những người qua đường,đám đông đã không thông cảm với Chúa Giêsu ,họ đã hoàn toàn xấu xa,nhẫn tâm ,chửi rủa,mắng nhiếc Chúa Giêsu ,muôn đời họ đã không gặp được Chúa.

II.Hạng người không gặp được Chúa :Bọn lính .Những người thi hành lệnh của cấp trên , nếu xét về lý họ không có tội,nhưng họ đã hùa theo ,không cảm thông với Chúa Giêsu ,họ đã đánh đập,mắng nhiếc Chúa.Họ quả thực dã tâm đã không thương tiếc Chúa dù rằng họ chả có quyền gì .Họ đáng tội vì hùa theo mà thách thức làm nhục Chúa Giêsu.

III.Hạng người không gặp được Chúa:Trưởng tế,Biệt Phái ,Luật Sĩ .Chính họ đã ghanh ghét Chúa Giêsu ,luôn rình rập để bắt bẻ và kén án Chúa Giêsu .Họ đắc chí vì đã mua chuộc được Giuđa phản bội,bán Chúa Giêsu 30 đồng bạc.Họ qúa dã man và ác tâm .

IV.Hạng người không gặp được Chúa: tên trộm dữ .Tin mừng cho thấy rõ tội của y tầy trời
, nhưng y đã tỏ ra nhỏ nhen vào hùa với người khác để mắng nhiếc,nói lời lộng ngôn và thách thức Chúa Giêsu.

V. Hạng người đã gặp được Chúa : người trộm lành . Người trộm lành chấp nhận tội lỗi của mình và nhận bản án của mình là đúng ,đồng thời bênh vực Chúa Giêsu là người vô tội và chê trách tên trộm dữ là lộng ngôn,vô phép không biết điều .Người trộm dữ đã được Chúa thương cứu độ,phong thánh và cho vào nước Chúa ngay vào lúc ông nại tới tấm lòng thương xót của Chúa Giêsu ."Lạy Ngài khi nào Ngài về nước Ngài xin nhớ đến tôi với ".Người trộm lành đã gặp được Chúa vì ông có lòng thương người .Chính lòng thương người đã giúp ông nhận ra Chúa trong khi biết bao người đã hùa theo,la ó đòi đóng đinh Chúa vào thập giá. không một ai dám lên tiếng bênh vực Chúa Giêsu vộ tội ,ngay cả các môn đệ cũng thế.

Đối diện với bản án của Chúa Giêsu và đi hết cuộc hành trình thập giá tiến về núi sọ .Ta thuộc hạng người nào ?


Linh mục Giuse Nguyễn hưng Lợi DCCT
 

langvuon

khoai nướng
#95
Ðề: Lịch Phụng Vụ tháng 4/2011

Thứ Bảy 23 Tr
Thứ Bảy Tuần Thánh
Lễ Vọng Phục Sinh
Thánh George, Tđ
St 1: 1-2, 1 Xh 14: 15-31; 15: 1 Is 54: 5-14; 55: 1-11 Br 3: 9-15, 32-38; 4: 4 Ed 36: 16-17, 18-28 Tv 104: 1-2, 5-6, 10, 12, 13-14, 24, 35 33: 4-5, 6-7, 12-13, 20-22 16: 5, 8, 9-10, 11 Xh 15: 1-2, 3-4, 5-6, 17-18 Tv 30: 2, 4, 5-6, 11-12, 13 Is 12: 2-3, 4, 5-6 Tv 19: 8, 9, 10, 11; 42: 3, 5; 43: 3, 4; 51: 12-13, 14-15, 18-19 Rm 6: 3-11 Mt 28: 1-10

Thứ Bảy Tuần Thánh

Hôm nay, thứ Bảy tuần Thánh, Hội Thánh tưởng niệm việc chôn táng Chúa Giêsu trong mồ. Lặng ngắm trước
mồ Chúa để suy nghĩ thật sâu lắng, thật nghiêm túc về những gì đang diễn ra đối với Người, Hội Thánh nhận ra tội lỗi của mình nặng nề ghê gớ. Tội lỗi là một thứ vũ khí giết người đến kinh hoàng. Vì thế, Hội Thánh thống hối sâu xa và diễn tả nỗi đau thống hối ấy thật đậm nét trong phụng vụ: Bàn thờ trần trụi, không khăn khăn trải; không bông hoa, chỉ có thánh giá treo thân xác bất động của Chúa và những ngọn nến chầu leo lét; không cử hành một nghi thức đặc biệt nào, kể cả thánh lễ. Đúng hơn, ngày hôm nay, thứ Bảy tuần Thánh, Hội Thánh canh thức bên cạnh mồ Chúa và ăn chay cầu nguyện để trông đợi Chúa phục sinh. Niềm vui phục sinh làm cho Hội Thánh sống lại, cùng với sự sống lại khải hoàn của Chúa.

Diễn tả nỗi đau đớn do tội của mình trong sự chết của Chúa lớn bao nhiêu, thì Hội Thánh cũng sẽ tưng bừng cử hành mầu nhiệm phục sinh lớn bấy nhiêu. Thời gian u uất đã qua, Hội Thánh tưng bừng mời gọi: “Hãy vui lên, hỡi ca đoàn thiên sứ; hãy vui lên hỡi những mầu nhiệm thánh. Tiếng loa cứu độ, hãy vang khúc mừng Vua Cả khải hoàn. Vui lên, hỡi trái đất rực rỡ trong ánh sáng huy hoàng: và trong ánh huy hoàng của Vua muôn thuở, hãy vui mừng, vì được thoát vòng tối tăm của vũ trụ. Vui lên Mẹ Hội Thánh trong muôn ánh sáng lung linh, và thánh đường, hãy vang lên tiếng ca hát của toàn dân” (bài ca Tin Mừng Phục sinh – Exsultet).

Công bố Tin Mừng Phục Sinh trong đêm thứ bảy tuần Thánh, đêm cực thánh, đêm mẹ của các đêm, đêm tưng bừng, đêm Hội Thánh không ngớt tung hô dậy trời: Allêluia, alleluia, Chúa đã phục sinh. Alleluia, alleluia, Chúa đã phục sinh. Hội Thánh vui mừng sống lại biến cố trọng đại chưa từng có, và cũng sẽ không bao giờ có lần nào nữa trong suốt chiều dài lịch sử của mình. Biến cố mà các phụ nữ dù trong lòng đã nhảy cẩng lên, nhưng vẫn khiếp đãm đến run rẩy vì không chỉ bàng hoàng mà còn là niềm sung sướng đến kinh hồn bạt vía:

“Hết ngày Sabbat, bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Giacôbê và bà Salômê, mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu. Và từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ, họ bảo nhau: ‘Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta’. Khi đưa mắt nhìn, các bà thấy tảng đá đã được lăn ra bên cạnh. Mà tảng đá đó rất lớn. Các bà đi vào trong mồ, thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng nên các bà khiếp sợ. Nhưng người đó bảo các bà rằng: ‘Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nagiaréth chịu đóng đinh: nhưng NGƯỜI ĐÃ SỐNG LẠI, không còn ở đây nữa. Đây là chỗ người ta đã đặt Người. các bà hãy nói với các môn đệ Người, nhất là với Phêrô rằng: Người đến xứ Galilê trước các ông. Ở đó các ông sẽ thấy Người như Người đã từng nói trước’. Nhưng các bà chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi” (Mc 19, 1-8).

* Hỡi Thiên Chúa Cha toàn năng, Chúa hãy vui lên, vì sự chiến thắng oai hùng của Con Chúa, Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con khải hoàn muôn thuở.
* Hỡi Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, hãy vui lê. Mẹ hãy cùng chúng con chiêm ngắm vẻ đẹp rạng rỡ của ngày phục sinh Con dấu ái của Mẹ.
* Hỡi triều thần thánh, hãy vui lên. Hãy ca vang. Ca vang nữa khúc ca thiên đàng, hợp cùng chúng tôi nơi trần thế, mừng ngày cứu độ toàn thể chúng ta trong ánh sáng huy hoàng có một không hai.
* Hỡi các vong linh đang thanh luyện, hãy vui lên, vì giờ cứu thoát chúng ta đã đến. Chúa Cứu Độ chúng ta đã yêu thương chúng ta vô tận, yêu thương đến cùng. Người là Chúa chiến thắng. Chúng ta dự phần chiến thắng của Người.
* Hỡi vụ trụ hữu hình và vô hình, hãy vui lên. Toàn vũ trụ hãy nhảy múa vì dấu ấn của tội xưa đã được xóa sạch. Chúa Cứu Độ chúng ta đã cất chiếc khăn tang bao trùm toàn dân. Người đã làm tiêu tang chiếc khăn liệm trải trên muôn nước. Người tiêu diệt sự chết mà tội ác gây nên.

Đến muôn đời dấu ấn của tội xưa sẽ thất bại. Nó không còn thống trị chúng ta, bởi nó đã bị tiêu diệt đến muôn đời. Từ nay, Chúa Cứu Thoát lau khô nước mắt trên mọi khuôn mặt. Người cất khỏi mặt đất sự tủi hổ của chúng ta. Người thết đãi chúng ta bữa tiệc hoang lạc, bữa tiệc toàn ánh sáng, bữa tiệc trường cửu trên núi thánh của Người. Bởi vậy, vũ trụ hãy vui lên, vui lên nữa. Nơi Đấng Cứu Thoát tuyệt đối thánh thiện, chúng ta đặt trọn niềm tin tưởng. Chúng ta hân hoan, chúng ta vui mừng trong ơn Người cứu độ (x.Is 23, 6a. 7-9).

Anh chị em loài người và muôn vật trên trời, trong rừng sâu, dưới lòng biển, hãy vui lên, nhảy cẩng lên như trẻ thơ vô tư. Hãy hát khúc hát vui mừng bằng mọi âm thanh mà mình có thể diễn tả. Hãy nhảy điệu nhảy của muôn loài. Hãy tấu lên khúc hòa tấu chung trên toàn thế giới. Hãy trỗi lên mọi thanh âm, cho bừng lên nét rạng ngời, để không chốn nào còn khóc lóc, sầu đau. Hãy làm rạng lên ánh sáng của ngày cứu độ. Hãy chiếu soi huy hoàng vào mọi góc tối của rần thế. Hãy làm mọi cách có thể để nổi bậc niềm vui thánh thiện: CHÚA CHÚNG TA PHỤC SINH!!!
Lm. Vũ Xuân Hạnh


Ngày 24 tháng 04
Thánh Fidelis ở Sigmaringen
(1578 -- 1622)

Nếu có người nghèo cần đến quần áo, Thánh Fidelis thường lấy ngay quần áo của mình đang mặc mà chia sẻ cho họ. Sự hoàn toàn độ lượng là đặc tính của cuộc đời thánh nhân.

Sinh năm 1578 trong một gia đình giầu có ở Sigmaringen, Thánh Fidelis có tên gọi là Mark Rey, ngay từ nhỏ rõ ràng ngài đã có những khả năng đặc biệt. Sau khi được vinh dự nhận bằng tiến sĩ triết và luật tại Ðại Học Freeburgh, Mark Rey cùng với ba người bạn đi khắp Âu Châu trong vòng sáu năm.

Ngài hành nghề luật sư, và các thân chủ đều mến mộ sự khôn ngoan và công chính của ngài. Nhưng dần dà ngài cảm thấy ghê tởm sự thối nát trong giới đồng nghiệp, và khi được hối lộ để kéo dài một vụ kiện ngài đã quyết định đi tu, gia nhập dòng Phanxicô và lấy tên Fidelis. Tài sản của ngài được chia cho người nghèo và nhà dòng.

Với quyết tâm rao giảng cho mọi người biết về đức tin chân thật, sau khi thụ phong linh mục, Cha Fidelis được phép hoạt động truyền giáo cho người Tin Lành, đó là một công việc đầy nguy hiểm trong thời ấy. Ngài chuẩn bị cho sứ vụ này bằng việc học hỏi, viết lách, cầu nguyện và hãm mình. Với những lời đầy nhiệt huyết ngài bài bác lạc thuyết của Calvin và Zwingli. Nhiều người Tin Lành cũng như người Công Giáo sa ngã đã trở về với đức tin Công Giáo.

Sau đó Cha Fidelis làm Giám Ðốc của một tu viện và là nguồn khai sáng cho các tu sĩ với tinh thần chiêm niệm luôn bao trùm nhà dòng. Chính ngài và các thầy chăm sóc các quân nhân về thể xác cũng như tinh thần khiến các sĩ quan Tin Lành tức giận.

Có lần ngài nói với một linh mục bạn về hai điều ước của ngài; một là được ơn không bao giờ phạm tội trọng, và hai là được chết vì Ðức Tin. Thiên Chúa đã nhận lời ngài.

Trong ba năm, ngài được Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô XV sai đến Thetia hoạt động và ngài hoán cải rất nhiều người. Các giáo sĩ theo phái Calvin(*) xách động dân chúng, và vào ngày 24 tháng Tư 1624, đó là lần rao giảng chót của Cha Fidelis. Khi ngài vừa lên toà giảng để nói về "Một Thiên Chúa, Một Ðức Tin, Một Phép Rửa", đám đông la ó phản đối, họ lôi ngài ra khỏi nhà thờ và dùng gậy gộc đánh đập và dùng gươm đâm ngài chết.

Lời Bàn

Sự liên lỉ cầu nguyện của Thánh Fidelis đã giữ ngài luôn trung thành với Thiên Chúa và không nhượng bộ sự lãnh đạm và thờ ơ. Người ta thường nghe ngài nói, "Khốn cho tôi, nếu tôi chỉ là một người lính thiếu tận tâm phục vụ vị Thủ Lãnh đội mão gai." Sự cầu nguyện đối với sự thờ ơ, và sự lưu tâm đối với người nghèo đã khiến thánh nhân trở nên một gương mẫu có giá trị cho ngày nay. Giáo Hội thường kêu gọi chúng ta hãy noi gương người "luật sư của người nghèo" này bằng cách chia sẻ tài năng chúng ta với những người kém may mắn, và hoạt động cho sự công bằng của thế giới.

Lời Trích

"Hành động vì sự công bằng và tham dự trong việc biến đổi thế gian thực sự là một yếu tố cơ bản trong việc rao giảng phúc âm hoặc, nói cách khác, trong sứ vụ của Giáo Hội để cứu chuộc loài người và giải thoát con người khỏi mọi áp bức" ("Sự Công Bằng Trong Thế Giới," Thượng Hội Ðồng Giám Mục, 1971).


 

langvuon

khoai nướng
#96
Ðề: Lịch Phụng Vụ tháng 4/2011

Chúa Nhật 24 Tr
Chúa Nhật thứ I Mùa Phục Sinh
CHÚA NHẬT PHỤC SINH

Thánh Fidelis đệ Sigmaringen, Lmtđ
Cv 10: 34, 37-43 Tv 118: 1-2, 16-17, 22-23 Cl 3: 1-4; 1 1Cor 5: 68 Ga 20: 1-9

CHÚA NHẬT PHỤC SINH

CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI RỒI :HÃY ĐI LOAN BÁO TIN MỪNG

Nếu có một người nào đó nói với bạn:"chết rồi sẽ sống lại", chắc bạn sẽ bỉu môi,suy nghĩ và có khi hoang mang chưa dám tin, vì đức tin bạn yếu hay bạn chưa có lòng tin. Và đây,có một câu chuyện thật một trăm phần trăm đã xẩy ra cách đây 2003 năm trong lịch sử nhân loại.Đức Giêsu Kitô đã đến trần gian, sống với trần gian, sống cho trần gian, hòa đồng với mọi người ngoại trừ tội lỗi. Ba năm Chúa Giêsu đi giảng đạo, Người đã kết nạp các môn đệ, giáo dục, cắt nghĩa, giải thích cho các môn đệ nhiều điều; sau cùng tới thời đã định, Người đã chấp nhận ý Thiên Chúa Cha, chịu chết treo trên thập hình tự giá dù rằng Ngài hoàn toàn vô tội, con người đã chôn Ngài trong mồ đá, nhưng sau ba ngày Người đã sống lại đúng như lời Ngài đã loan báo trước……Đó là biến cố vô cùng quan trọng đã làm đảo lộn lịch sử nhân loại,xôn xao dư luận từ 2003 năm nay và chắc chắn còn tiếp tục mãi cho đến ngày tận thế …"Ta là sự sống lại và là sự sống;ai tin Ta, sẽ không chết đời đời "(Ga 11,25a.26)

I. VẪN LÀ CÁI NGỚ NGẨN CỦA CÁC MÔN ĐỆ ,CỦA DÂN DO THÁI VÀ NHIỀU NGƯỜI:

Chúa Giêsu sau thời gian ẩn dật ở Nagiarét với cha mẹ Người ;ba năm đi rao giảng công

Khai,Chúa Giêsu đã kêu gọi một số môn đệ đi theo Người ,Chúa đã giảng dậy,uốn nắn,giải thích, cắt nghĩa cho các môn đệ nhiều điều,Chúa đã làm rất nhiều phép lạ trước mặt các môn đệ để củng cố lời nói của Ngài như Chúa Giêsu đã làm cho nước hóa thành rượu ngon trong tiệc cưới Cana (Ga 2,1-11),làm cho bánh hóa nhiều để nuôi nhiều ngàn người(Mt 14,13-21),làm cho kẻ chết sống lại (Mc 5,21-43),Lc 7,11-12 ; 11,1-14 ) vv…Chúa đã trừ quỉ,chữa lành nhiều bệnh hoạn tật nguyền.

Nhưng phép lạ lớn nhất vẫn là phép lạ chính Người đã chết thật trên thập giá,đã được an táng trong mồ ,chỉ ba ngày sau tự Ngài đã sống lại như lời Ngài đã loan báo trước (Ga 20,31 ) .Các môn đệ còn mê muội không hiểu gì về biến cố lớn lao ấy vì rằng Thánh Thần chưa mở trí cho các môn đệ. Vâng,trước khi thực hiện thánh ý Chúa cha cứu đời ,Chúa Giêsu đã nói gần,nói xa với các môn đệ. Nhưng lòng trí các môn đệ vẫn nặng nề chưa làm sao hiểu nổi,các môn đệ cũng xin Chúa Giêsu giải thích thêm nhưng các môn đệ vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa. Các môn đệ cứ tưởng rằng Thầy mình sẽ khôi phục lại nước Israen theo kiểu trần gian,để mỗi một môn đệ sẽ trở nên công hầu khanh tướng trong vương quốc của thầy Giêsu .Các môn đệ vẫn còn cái óc xưng hùng xưng bá . Các ông cứ tưởng rằng thầy Giêsu sẽ làm Vua như kiểucác vua thế trần. Thế nên,mới có chuyện bà mẹ hai con ông Giêbêđê tới xin xỏ với Chúa Giêsu cho một đức con ngồi bên tả và một đứa ngồi bên hữu Chúa .Thế mới có chuyện,Phêrô vị thủ lãnh các tông đồ vừa tuyên xưng Thầy là Đức Kitô,con Thiên Chúa hằng sống ,được Chúa khen tặng ,nhưng khi nghe Thầy Giêsu loan báo ý định chịu chết cứu đời .Phêrô đã vội vã cản đường Chúa Giêsu.Đúng là các môn đệ đã chẳng hiểu tí gì về con đường của Chúa phải đi ,không hiểu gì về ý định của Chúa là phải tuân phục ý Chúa Cha:"Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta"(Ga 4,32 )."Người đã hạ mình xuống, Vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá "( Pl 2,8 ).Chúa Giêsu đã chết và được Philatô ban tử thi cho ông Giuse ,một nghị viên quê ở Arimathia chôn cất .(Mc 15,42-46) và (Ga 19,38-42 ).

Tuy nhiên biến cố mồ trống từ tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần đã làm mọi người hoang mang, nhất là các bà phụ nữ ra thăm mộ từ sáng sớm ,trong đó có cả Phêrô ,vị lãnh đạo Giáo Hội .Quả thực hiện tương hoang sơ của ngày thứ nhất theo sách khởi nguyên,là một sự trống vắng,mông lung .Ngày thứ nhất ấy đã được khỏa lấp bằng ngày thứ nhất phục sinh khi Chúa Giêsu từ trong kẻ chết sống lại .Người ta có thể nhất trí với nhau rằng nếu mọi việc đều bình thản,nghĩa là khi Maria Mađalêna,vài phụ nữ khác,Phêrô và Gioan ra mộ và thấy xác Chúa Giêsu vẫn còn nguyên nằm đó thì không có Tin Mừng phục sinh,không có tin được loan truyền,loan báo .Nhưng mọi sự đều khác:

Sự kiện mồ trống(Mt 28,1-8).Chúa hiện ra với Maria(Ga 20,11-18)… Các môn đệ ngay chính lúc đó vẫn chưa hiểu nổi lời Thánh kinh:"Đức Giêsu phải sống lại từ cõi chết " (Ga 20,9; Cv 2,24-31 , 13,32-37 ) .Vì thế,các người Do Thái và nhiều người khác lại càng tỏ ra mù tịt về biến cố Chúa Giêsu sống lại .Các vị lãnh đạo Do Thái,dân Do Thái và nhân

Loại tưởng rằng đã giết được Chúa Giêsu,tưởng rằng đã loại trừ được Chúa Giêsu là họ đã chiến thắng .Họ có biết đâu :"Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần.Ngài đã trở thành bất tử ".Các người Do Thái,các tư tế,thượng tế,biệt phái và nhiều người khác đã ấm ớ như bọn lính được các quan chức cho tiền để tung ra tin giật gân,hầu mập mờ đánh lận con đen:"Lính canh lãnh tiền và được dậy sao thì làm như vậy " (Mt 28,11-15 ),nhưng nhân loại có hiểu đâu:"…Nếu Đức Kitô đã không sống lại,thì việc anh em tin cũng hão huyền "(1co 15,12-17 ).

II . GIOAN ĐÃ TIN ,CÁC NGƯỜI PHỤ NỮ CŨNG ĐÃ TIN …

Gioan,người môn đệ Chúa Giêsu yêu,đã ngồi kề ở ngực Chúa trong bữa tiệc ly ,khi chạy tới mộ trước Phêrô ,thấy khăn liệm đã được cuộn lại,khăn phủ đầu để một nơi gọn gàng,Gioan liền tin. (Ga 20,5-8 ). Gioan đã có cái nhạy cảm từ con tim vì chính Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho ông nhận ra sự kiện huyền diệu ấy .Gioan đã nhận ra ngay dấu chỉ của sự kiện phục sinh :Chúa Giêsu phải sống lại từ cõi chết .Thân xác của Chúa Giêsu theo lời Thánh kinh phải đi vào cõi vinh quang,cõi vĩnh hằng .Nó không thể là thân xác trở lại cuộc sống trần thế bình thường như con bà goá thành Naim, con gái ông Giarô và Lazarô được Chúa Giêsu lam cho sống lại .Nhưng thân xác của Chúa Giêsu lúc này đây sẽ trở nên khác hẳn như thánh Phaolô so sánh :"Khi bị an táng,nó là một thân xác vật

chất,nhưng khi sống lại,nó sẽ trở thành một thân thể tinh thần " (1co 15,37.42- 44).Gioan đã có trực giác rất nhạy bén vì người vào mồ trước không phải là Maria Mađalêna,không phải là Gioan mà là Phêrô vị thủ lãnh các tông đồ .Trực giác của Gioan chỉ ra rằng tin thấy chưa đủ mà phải phát phải phát xuất tự tình yêu .Gioan đã sống trong tình yêu tuyệt đối,nên ông đã nhận ra Chúa sống lại trước hết mọi người vì ông tin có sự sống đang ở đó,rằng tình yêu không chết,tình yêu rất sống động.

Phêrô đã thấy tất cả sự việc ,Maria đã thấy tảng đá đậy mồ bị đẩy ra ngoài nhưng cả Phêrô,cả Maria Mađalêna vẫn chưa hiểu gì về lời Thánh kinh đã nói trước. Vâng,Gioan đã thấy và đã tin .Rồi từ sự kiện của lòng tin .Phêrô cũng đã từ từ được ơn soi sáng và Ông cũng nhận ra Chúa đã sống lại. Còn Maria Mađalêna ,sau cái sự kiện mồ trống,sau ánh sáng lu mờ,còn xám xịt của buổi sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần:tảng đá bị lăn ra và dầu thơm hương liệu còn ở trong tay .Maria Mađa-Lêna đã không kịp xoay sở khi Chúa hiện ra với bà ,và bà cứ tưởng là người làm vườn ,khi Chúa âu yếm kêu tên bà và bà đã nhận ra Chúa phục sinh:"Rabboni "(Lạy Thầy ) .Chúa phục sinh đã nói với bà :"Hãy về loan bao với anh em Ta …" hoặc khi các ngươi phụ nữ ramộ thì có một người mặc áo trắng và nói với các bà rằng :"Tại sao cácbà tìm kẻ sống giữa kẻ chết.."(Lc 24,5 ).

Tất cả như bừng tỉnh sau một giấc mơ dài nhuộm mầu u tối .Dưới lăng kính của ánh bình minh .Gioan Phêrô , Mađalêna và các người phụ nữ đa õnhận ra Chúa phục sinh với con tim,với đức tin của mình.

III. TIN MỪNG PHỤC SINH VẪN LUÔN LÀ THÁCH ĐỐ :

Người ta cứ tưởng rằng giết được Chúa Giêsu là mọi sự đã chấm dứt .Người ta vẫn hão huyền,vẫn mơ mộng :Có người đã tin,có người còn mập mờ,có người không tin .Đã hơn hai ngàn năm,biến cố phục sinh vẫn luôn là thách đố dai dẳng. Người ta vẫn mập mờ như buổi sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần khi Mađalêna ra mộ:đáng lẽ ra xác Chúa vẫn còn ở đó,nhưng những gì Maria Mađalêna nắm bắt được là sự vắng mặt,chỉ thế thôi ! 2003 đã trôi qua,nhưng nhiều người vẫân chưa bừng tỉnh,họ vẫn như còn sống trong một cơn mơ dài không lối thoát . Có nhữngngười tưởng Chúa đã chết và như thế là chấm dứt tất cả, chính vì thế có nhà thần học đã viết :"Dieu est mort "(Thiên Chúa đã chết ) . Tuy nhiên , dựa vào lời Chúa ,chính Chúa đã nói:"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết mà là của người sống"(Mc 12,18-27) hoặc "Nếu hạt lúa mì gieo xuống đất không chết đi ,thì nó trơ trọi một mình;nhưng nếu nó chết đi,nó mới sai hoa kết trái "(Ga 12,24 ). Nhưng chính khi loan báo thương khó với các môn đệ tới ba lần,Chúa Giêsu đã quả quyết :"…Chúa chết ,sau ba ngày sẽ sống lại "(Mc 8,31;9,31:10,34 ).

Mừng lễ phục sinh hôm nay,chúng ta không được hạnh phúc như Phêrô,như Gioan và Maria Mađalêna đã thấy tảng đá được lăn ra,khăn liệm,khăn phủ đầu và mồ trống .

Tuy nhiên chúng ta còn hạnh phúc hơn vì chúng ta có lòng tin:chúng ta tin Chúa phục sinh vẫn luôn ở với ta bây giờ và mãi mãi.Chúng ta cùng với thánh Phaolô thốt lên lời này:"Nếu Đức Kitô đã không sống lại,thì việc anh em tin cũng hão huyền "(1co 15,12-17 ).Chúa Giêsu đã sống lại ,alléluia ..và Người đã"đi trước các môn đệ tới Galilêa "(Mc 16,7). Chúa phục sinh vẫn đợi mọi người chúng ta ở mọi thời,mọi nơi và Người truyền lệnh cho các môn đệ và mọi người:"Hãy loan truyền Tin Mừng phục sinh ". Chúa phục sinh hứa:"Và này Thầy sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho tới tận thế "(Mt 28,20 ).

Hãy làm chứng cho Chúa phục sinh nhờ ánh sáng phục sinh tràn ngập tâm hồn.Alléluia.

Lm Giuse Nguyễn hưng Lợi DCCT
 

langvuon

khoai nướng
#97
Ðề: Lịch Phụng Vụ 4/2011

Thứ Hai 25 Đ
Thứ Hai sau Chúa Nhật thứ I Mùa Phục Sinh

Lễ kính Thánh Marcô - Thánh sử
Cv 2: 14, 22-32 Tv 16: 1-2, 5, 7-8, 9-10, 11 Mt 28: 8-15

Marcô - Thánh sử
Ngày 25 tháng 04


Những gì chúng ta biết về Thánh Máccô thì trực tiếp từ Kinh Thánh Tân Ước. Ngài thường được coi là nhân vật Máccô trong Tông Ðồ Công Vụ 12:12 (Khi Phêrô thoát khỏi ngục và đến nhà mẹ của Máccô).

Phaolô và Barnabas muốn đem theo Máccô trong chuyến truyền giáo đầu tiên, nhưng vì một vài lý do nào đó, Máccô đã ở lại Giêrusalem một mình. Trong cuộc hành trình thứ hai, Phaolô lại từ chối không muốn đem theo Máccô, bất kể sự nài nỉ của Barnabas, điều đó chứng tỏ Máccô đã làm phật lòng Phaolô. Sau này, Phaolô yêu cầu Máccô đến thăm ngài khi ở trong ngục, điều đó cho thấy sự bất hòa giữa hai người không còn nữa.

Là phúc âm đầu tiên và ngắn nhất trong bốn Phúc Âm, Máccô nhấn mạnh đến việc Ðức Giêsu bị loài người tẩy chay trong khi chính Người là Thiên Chúa. Phúc Âm Thánh Máccô có lẽ được viết cho Dân Ngoại tòng giáo ở Rôma -- sau cái chết của Thánh Phêrô và Phaolô khoảng giữa thập niên 60 và 70.

Cũng như các thánh sử khác, Máccô không phải là một trong 12 tông đồ. Chúng ta không rõ ngài có biết Ðức Kitô một cách cá biệt hay không. Một số sử gia cho rằng vị thánh sử này đã nói đến chính ngài trong đoạn Ðức Kitô bị bắt ở Giệtsimani: "Bấy giờ một người trẻ đi theo Người chỉ khoác vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ túm lấy anh, nhưng anh tuột tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng" (Máccô 14:51-52).

Nhiều người khác cho rằng Máccô là giám mục đầu tiên của Alexandria, Ai Cập. Thành phố Venice, nổi tiếng với quảng trường San Marco, cho rằng Thánh Máccô là quan thầy của thành phố này; một vương cung thánh đường vĩ đại ở đây được coi là nơi chôn cất thánh nhân.

Dấu hiệu của Thánh Máccô là sư tử có cánh, do bởi đoạn Máccô diễn tả Gioan Tẩy Giả như một "tiếng kêu trong hoang địa" (Máccô 1:3), mà các nghệ nhân so sánh tiếng kêu ấy như tiếng sư tử gầm. Ðôi cánh của sư tử là vì người ta dùng thị kiến của Êgiêkien về bốn con vật có cánh mà áp dụng cho các thánh sử.

Lời Bàn

Cuộc đời Thánh Máccô đã hoàn tất những gì mà mọi Kitô Hữu được mời gọi để thi hành: rao truyền Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Ðặc biệt, phương cách của Thánh Máccô là qua sự viết văn. Những người khác có thể loan truyền Tin Mừng qua âm nhạc, nghệ thuật sân khấu, thi văn hay giáo dục con em ngay trong gia đình.

Lời Trích

Hầu hết những gì Thánh Máccô viết đều có đề cập đến trong các Phúc Âm khác -- chỉ trừ bốn đoạn. Sau đây là một đoạn: "... Chuyện nước trời cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Ðêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. Ðất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa" (Máccô 4:26-29).
 

langvuon

khoai nướng
#98
Ðề: Lịch Phụng Vụ 4/2011

Thứ Ba 26 Tr
Thứ Ba sau Chúa Nhật thứ I Mùa Phục Sinh
Cv 2: 36-41 Tv 33: 4-5, 18-19, 20, 22 Ga 20: 11-18

Thứ Tư 27 Tr
Thứ Tư sau Chúa Nhật thứ I Mùa Phục Sinh
Cv 3: 1-10 Tv 105: 1-2, 3-4, 6-7, 8-9 Lc 24: 13-35

Thứ Năm 28 Tr
Thứ Năm sau Chúa Nhật thứ I Mùa Phục Sinh
Thánh Phêrô Chanel, LmTđ
Cv 3: 11-26 Tv 8: 2, 5, 6-7, 8-9 Lc 24: 35-48
Kính thánh tử đạo Phaolô Khoan, Lm. Phêrô Hiếu và Gioan Baotixita Thành, Thày giảng

Ngày 28 tháng 04
THÁNH PHÊRÔ MARIA CHANEL, (St. Peter Chanel)

Linh mục, tử đạo,

Thánh vịnh 92,13-14 viết rằng:” Người công chính vươn lên tựa cây dừa tươi tốt, lớn mạnh tựa huơng bá Li-băng được trồng nơi nhà Chúa, mơn mởn giữa khuôn viên đền thánh Chúa ta”. Thánh Phêrô Maria Chanel quả thực là người công chính Chúa đã chọn để làm chứng cho bộ mặt đầy yêu thương của Ngài.

THÁNH PHÊRÔ MARIA CHANEL LÀ AI ?

Thánh nhân sinh ngày 12 tháng 7 năm 1803 tại Cuet, một làng thuộc địa phận Lyon, nước Pháp. Gia đình của thánh nhân gồm tám anh em và Ngài là thứ năm. Thánh nhân theo ban cổ học tại Maximieux, rồi học thần học tại Đại Chủng Viện Brou và lãnh nhận sứ vụ linh mục ngày 15 tháng 7 năm 1827. Thánh nhân ban đầu được bổ nhiệm làm phó xứ, giáo xứ Ambérieu, sau đó Ngài được cất nhắc làm cha sở giáo xứ Crozet. Thánh nhân xin gia nhập hội thánh mẫu Maria vào năm 1831. Thánh nhân làm giáo sư tiểu chủng viện Belley năm năm và sau đó Ngài xin đi truyền giáo tại Océanie. Thánh nhân luôn xác tín lời thánh vịnh:” Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát, người nhận biết danh Ta sẽ được sức phù trì”( Tv 91, 14 ).

Thánh nhân cùng với hai người bạn ra đi truyền giáo:” Ra đi trong nước mắt, sẽ về giữa tiếng cười”. Bước loan báo Tin Mừng của Ngài đầu tiên là ở đảo Futuna. Vua đảo Futuna cho các Ngài tạm trú hai năm. Nhưng ý đồ của nhà vua thâm hiểm, vua nghi ngờ người công giáo sẽ tiếm ngai vua, nên vua đã ngưng tiếp tế lương thực cho các Ngài, hạn chế và theo dõi mọi sinh hoạt của các Ngài. Để kiếm sống, các Ngài phải tự lực cánh sinh bằng cách canh tác, nhưng nhà vua và thuộc hạ lại ra lệnh cướp hết hoa mầu của các Ngài. Dù thiếu thốn, đói khổ, nguy hiểm, các Ngài vẫn kiên trì phục vụ, số tín hữu càng ngày càng trở nên đông đảo đúng như lời thánh vịnh:” Ngài cho con ngẩng đầu hãnh diện, tựa như trâu ngạo nghễ giương sừng, thân con, Ngài xức dầu thơm mát. Mắt con nghênh những kẻ địch thù, tai nghe biết lũ hại con mạt vận”( Tv 92, 11-12 ).

THÁNH NHÂN ĐƯỢC PHÚC TỬ ĐẠO

Chông gai, thử thách giăng tứ phía, thánh nhân vẫn ngẩng đầu giương cao và không hề sợ nguy hiểm dẫu có phải hy sinh cả mạng sống. Nhà vua càng cấm cách, ngăn cản, số người theo Chúa càng đông. Nhà vua căm hờn, tức giận đã quyết định giết các Ngài. Trước tin đầy nguy hiểm ấy, các Ngài không chút sợ hãi, lo âu mà vẫn tỏ ra không hề rúng động, xôn xao, nao núng. Thánh nhân tin và phó thác vào Chúa:” Dù tả hữu có ngàn người ngã qụy, dù hai bên có chết cả vạn người, riêng phần bạn tuyệt nhiên không hề hấn”( Tv 91, 7 ). Hung hăng, tự mãn, nhà vua ra lệnh cho nhóm đông sáng ngày 28 tháng 4 năm 1841 mang gậy gộc, giáo mác kéo đến gây chuyện, hành hung và giết chết Ngài. Chúa thưởng công cho Ngài là cho cả đảo Futuna ít lâu sau đó đã trở về với Chúa và Giáo Hội hoàn toàn.

Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh Phêrô Sa-nen được vinh phúc tử đạo để mở mang Hội Thánh Chúa. Trong niềm hân hoan của mùa phục sinh này, xin cho chúng con biết tham dự vào mầu nhiệm Đức Kitô chịu chết và sống lại, hầu trở nên chứng nhân của sự sống mới” ( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Phêrô Sa-nen, linh mục, tử đạo ).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Ngày 28 tháng 04
Thánh Phaolô PHẠM KHẮC KHOAN
Linh mục ( 1771-1840)

Phêrô NGUYỄN VĂN HIẾU
Thày Giảng (1777-1840)

Thánh Gioan Baotixita ĐINH VĂN THÀNH
Thày giảng(1796-1840)


Lời cảm tạ

Tâu thượng đế,
Này thần dân xin hát mừng trước bệ
Tuyên xưng Ngài là Chúa Tể càn khôn.
Suy tôn Chúa bậc tông đồ hợp xướng,
Tán tụng Ngài bao thế hệ tiên tri.
Đoàn tử đạo quang huy hùng dũng,
Máu đào đổ ra minh chứng về Ngài.

Đó là lời kinh TE DEUM lời kinh tạ ơn mà cha khoan và hai thày Hiếu, Thành đã hát vang lên trong ngục, cũng như trên đường ra pháp trường. Đó là lời kinh đem lại phấn khởi cho những ai nghe được. Đó là tiếng hát của Giáo Hội sơ khai, khi cuộc bách hại 300 năm chấm dứt, nay lại vang lên trên môi miệng các vị tử đạo Việt Nam, vượt thấu chín tầng mây, chấp cánh cho các ngài bay về hợp đoàn với muôn thần thánh trên Thiên Quốc.

Định mệnh nối kết ba con người

Phaolô Phạm Khắc Khoan sinh năm 1771 tại làng Bồng Hải, tỉnh Ninh Bình, thuộc giáo phận Tây Đàng Ngoài. Sau khi thụ phong linh mục, cha phụ trách xứ Kẻ Vịnh, rồi xứ Phúc Nhạc, nơi đông dân cư nhất trong tỉnh. Cha Khoan rất hăng say hoạt động tông đồ, ngoài xứ chính ra cha còn phụ trách thêm hai họ Đông Biên và Tôn Đạo. Mỗi tháng Ngài đều đến các họ lẻ dâng lễ, giải tội và khích lệ giáo hữu sống đạo đức gương mẫu hơn. Mỗi lần đi như vậy cha thường dẫn theo một vài thày giảng để giúp dạy giáo lý và tiếp xúc sâu xát hơn với quần chúng. Năm 1837, có hai thày cùng đi với cha về giúp họ Đông Biên là thày Phêrô Nguyễn Văn Hiếu 60 tuổi, người làng Đồng Chuối,và thày Gioan Baotixita Đinh Văn Thành, 41 tuổi, gốc Luốn khê (Phát Diệm). Trên đường trở về, cả ba cha con bị bắt và bị giải về Ninh Bình. Khi đó cha Khoan đã 66 tuổi.

Trước lời đường mật

Vì kính trọng cha tuổi cao lại có tướng người phúc hậu, một hôm quan Tổng trấn mời ngài đến và nói: “Ta muốn kết thân với ông. Ta chỉ muốn tìm cách cứu mạng ông thôi. Xin ông chịu khó chấp nhận bước qua Thập Giá”. Cha trả lời: “Mấy tháng qua ở trong tù, tôi đã suy tính kỹ lắm rồi, nhưng càng nghĩ tôi càng xác tín hơn, càng cương quyết giữ vững đức tin cho đến chết”. Rồi cha kể lại chuyện xảy ra năm 1802:

“Khi đó, Thế Tổ Gia Long, phụ thân của Hoàng đế ra Hà Nội, chúng tôi có đến ra mắt. Người hứa cho chúng tôi được tự do giảng đạo, xây nhà thờ và các nhà bác ái. Người yêu cầu chúng tôi cổ động dân chúng sống hòa thuận và chăm chỉ làm ăn. Từ đó đến nay, tôi vẫn lệnh vua, nhắc nhở bà con làm điều tốt, tránh điều xấu. Tôi thờ Vua trên trời và thuần phục vua dưới đất, tôi vẫn xin Vua trên trời ban ơn cho các quan, để thời các ngài được thái bình thịnh trị. Sao hôm nay quan lại bảo tôi bỏ lệnh Tiên Đế mà tôi đã tuân hành biết bao năm nay ?

- Thế ông không muốn sống à ?

- Thưa quan, mọi sinh vật đều muốn sống, huống chi là con người có suy nghĩ. Ai biết giá trị cuộc sống mà chẳng ham sống. Thế nhưng với người Kitô hữu, chết là cách sống đời đời trên Thiên Đàng.

- Ai bảo ông là có Thiên Đàng.

- Đó là chuyện đương nhiên. Như nhà vua vẫn ban thưởng cho những trung thần, thì Chúa trời đất chẳng lẽ không ban thưởng cho những tôi trung phục vụ Người đến chết sao ? Nơi tưởng thưởng đó, chúng tôi gọi là Thiên Đàng.

- Vậy ai dạy cho ông biết là có Chúa trời đất ?

- Thưa Tổng trấn, không cần phải ai dạy cả, chính trời đất vũ trụ là cuốn sách mở ra dạy ta bài học đó. Nhìn ngắm những công trình kỳ diệu của thiên nhiên tức khắc phải nhận ra có Đấng Tạo Hóa đó là Chúa Trời và tôn thờ Người”.

Vì hy vọng thời gian sẽ làm các anh hùng đức tin nản chí, quan tìm cách trì hoãn vụ án thật lâu. Thấm thoát ba vị đã ở tù được gần ba năm. Thỉnh thoảng quan lại gọi ra tòa đề nghị bước qua Thập Giá. Mới đầu thì khuyên dụ ngọt ngào, sau dùng cực hình để cưỡng bách, nhưng không cách nào có thể làm các vị thay lòng đổi dạ.

Thái độ hai thày giảng cũng làm cho mọi người bỡ ngỡ thán phục. Dù bị hành hạ dã man đến đâu, hai thày cũng vẫn thản nhiên nhẫn nại, không bao giờ trách mắng chửi rủa, chỉ lập đi lập lại một điều: “Dù sống dù chết, chúng tôi không bao giờ bỏ đức tin”. Niềm an ủi lớn nhất của hai thày là được ở gần cha Khoan, sớm hôm tâm sự và thỉnh thoảng lãnh bí tích giải tội. Các thày coi những ngày ở tù như thời gian thanh luyện để lập công đền bù những lỗi lầm từ thơ ấu. Đôi khi có người khéo léo đưa được Mình Thánh Chúa vào tù, đó là những ngày sung sướng và hạnh phúc nhất của ba vị.

Một lần cha Khoan nói thẳng với quan án rằng: “Quan bảo tôi chà đạp Thập Giá là điều chẳng hợp lý chút nào?”. Quan hỏi: “Sao lại không hợp lý, ta chỉ cho ông con đường sống mà không hợp lý à ?”. Cha nói: “Thưa quan, nếu nước nhà có biến, mà quan sợ chết đào ngũ thì quan là kẻ hèn nhát. Cũng vậy, tôi nhờ ơn Vua cả trên trời, tôi đâu có quyền sợ chết mà bỏ Người được”.

Lời chứng cuối cùng và bài ca phục sinh

Khi thấy hoàn toàn thất vọng trước sự kiên tâm quyết chí của ba người “lính” Chúa Kitô, quan đành quyết định ký án tử gởi về triều đình xin phép. Trong những ngày chờ đợi cuối cùng đó, trại giam Ninh Bình vang vọng những tiếng hát hân hoan. Đó là tiếng hát cha Khoan và hai thày giảng hát lên lời kinh Tạ Ơn. Cha một câu, hai thày một câu, nhịp nhàng rộn rã. Trên đường ra pháp trường, ba vị vẫn không ngừng cất tiếng ca những lời tri ân đó.

Tại pháp trường ngày 28.4.1840, cha khoan xin phép nói với dân chúng đôi lời, ngài nói:

“Thưa đồng bào và các bạn hữu, chúng tôi không phạm tội ác, không chống lại vua, không lỗi luật nước. Chúng tôi chết chỉ vì là Kitô hữu và vì không chịu bỏ đạo Kitô, là đạo duy nhất chân thật”.

Lính đẩy ba vị vào khu vực riêng xa tầm mắt dân chúng. Ba vị giơ tay lên trời, hai thày hiệp ý cầu nguyện với linh mục:

“Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, Chúa trời đất. Chúng con hiến dâng mạng sống cho Ngài, xin Chúa chúc phúc cho nhà vua được cai trị lâu dài trong an bình. Xin biến đổi trái tim vua, để vua tin theo đạo thật, đạo duy nhất có thể đem lại cho con người hạnh phúc đích thực”.

Tiếp theo ba vị cầu nguyện bằng thánh ca. như trong đêm Phục Sinh, cha Khoan hát lên ba lần Allêluia, Allêluia, Allêluia mỗi lần nói cung giọng cao hơn. Xen kẽ vào đó hai thày giảng cũng hát thay cho cộng đoàn theo cao độ của vị chủ sự: “Allêluia, Allêluia, Allêluia”. Sau đó lý hình thi hành phận sự. Ba cái đầu cùng rơi xuống đưa ba vị thánh về hợp xướng với ca đoàn thiên thần trên Thiên Quốc với khúc hát Phục Sinh Allêluia bất diệt. Năm đó cha Khoan 69 tuổi, thày Hiếu 63 tuổi, thày Thành 44 tuổi. Thày giảng Huấn chứng kiến từ đầu vụ hành quyết, đã lãnh thi thể ba vị về Phúc Nhạc an táng theo nghi lễ công giáo.

Đức Lêo thứ XIII suy tôn cha Phaolô Phạm Khắc Khoan, hai thày Phêrô Nguyển Văn Hiếu và Gioan Baotixita Đinh Văn Thành lên bậc chân phước ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Tâm tình Đức Cha Retord Liêu trong thơ gởi cha Khoan

“Sách có câu: Chết vinh hơn sống nhục. Hãy coi những kẻ bội giáo, cuộc đời họ đáng tủi hổ biết bao. Ngược lại khắp bốn phương thiên hạ đều vang lời khen ngợi những ai chết cho đức tin. Các vị tử đạo như tiếng kèn Thiên Quốc, với âm điệu vang lừng muôn người lắng nghe. Những kẻ chối đạo, ở lại trần gian chỉ để chờ lưỡi rìu chặt đem về tiếp lửa cho hỏa ngục.

Máu các vị tử đạo như giọt sương đêm tưới mát vườn hoa Giáo Hội làm nó thêm phong nhiêu (phong phú và phù nhiêu). Tôi viết cho cha những lời vắn tắt vội vã này. Ước mong nó thành ngọn gió đưa cha lướt êm đến bến bờ quê hương. Ước mong nó thành đóa hoa rực rỡ với làn hương thơm tỏa ngát niềm vui tô thắm tâm hồn cha trong cuộc chiến cuối cùng. Xin kính cẩn tạm biệt cha. Xin kính cẩn hôn lên gông cùm xiềng xích của cha. Trong lúc cầu nguyện xin đừng quên tôi nhé !” (Launay III, tr.37-38).
 

langvuon

khoai nướng
#99
Ðề: Lịch Phụng Vụ 4/2011

Thứ Sáu 29 Tr
Thứ Sáu sau Chúa Nhật thứ I Mùa Phục Sinh
Lễ nhớ Thánh Catêrina đệ Siena, Đtts
Cv 4: 1-12 Tv 118: 1-2, 4, 22-24, 25-27 Ga 21: 1-14

Ngày 29 tháng 04
THÁNH CA-TA-RI-NA XI-Ê-NA, (St. Catherine)

Trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh, ngày 29/4

Ca nhập lễ thánh trinh nữ Ca-ta-ri-na Xi-ê-na có viết rằng:” Đây là một trong số các trinh nữ khôn ngoan, đã cầm đèn sáng ra đón Đức Kitô”. Thánh nữ Ca-ta-ri-na
Xi-ê-na đã được Hội Thánh ca ngợi là khôn ngoan, công chính và thông minh.

MỘT CON NGƯỜI. MỘT CUỘC ĐỜI

Thánh nữ Catarina chào đời năm 1347 trong một gia đạo đức và thế giá. Ngay từ lúc còn nhỏ, Catarina đã được hưởng một nền giáo dục hết sức nhân bản và đạo đức của gia đình: Ngài được thụ hưởng đức tính cương nghị của người cha, đức tính hiền lành, khiêm nhượng của người mẹ. Hai đức tính của cha mẹ, đã hun đúc thánh nhân nên con người quả cảm nhưng rất cương quyết, nghiêm túc trong cuộc đời và đời tu. Thánh nhân đã có ý định dấn thân cho Chúa ngay từ lúc còn nhỏ tuổi. Đến lúc trưởng thành vì thánh nhân có đức tính tốt, có lòng đạo đức, hiền lành, nên nhiều chàng trai đã đến ngỏ ý xin cưới Người làm vợ, nhưng tất cả đều bị Người từ chối. Chúa có cái nhìn của Ngài và ý định của Ngài vô phưng dò thấu như lời thánh Phaolô tông đồ đã viết:” Sự giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên chúa sâu thẩm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được ! “( Rm 12, 33 ).Thiên Chúa đã giúp Người qua qua biết bao nhiêu chông gai thử thách của cuộc đời. Năm 1364, với bao nhiêu cố gắng, hy sinh, ăn chay cầu nguyện, cha mẹ của thánh nữ Catarina đã chấp thuận cho Người đi tu. Thánh nhân đã xin gia nhập Dòng Đaminh với tên gọi là Thống Hối( Pénitence ). Thánh nhân đã sống một đời sống khó nghèo, khổ hạnh đầy gương mẫu và thánh thiện. Thánh Đaminh đã nhiều lần hiện ra yên ủi và khuyến khích thánh nữ sống con đường tận hiến tốt đẹp. Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần tỏ mình ra để trò chuyện và dạy bảo thánh nữ. Thánh nữ đã sống rất hài hòa với mọi người: hòa mình trong đời sống, giúp đỡ mọi người nhất là những người nghèo khó, tật nguyền, bơ vơ, tất bạt. Thánh nữ cũng đã hòa giải được nhiều gia đình, nhiều dòng họ đã có những mối thù lâu đời. Tuy nhiên, có kẻ thương cũng có kẻ ghen tỵ, ganh ghét, manh tâm chê bai, ghép cho Người nhãn hiệu giả hình. Thánh nhân cũng đã có công trong việc vận động đưa Giáo Triều về lại La Mã vì Giáo Triều lúc đó đang lưu vong ở Avignon nước Pháp, Người chấn hưng lòng đạo đang sa sút, xin tổ chức đạo binh thánh giá để chống lại người Hồi Giáo. Thánh nữ còn được Tòa Thánh tin tưởng, tín nhiệm cho mời về La Mã làm cố vấn cho Giáo Triều

THIÊN CHÚA TÔN VINH NGƯỜI

Thánh nữ ra đi về nhà cha vào ngày 29 tháng 4 năm 1380. Đức Thánh Cha Piô II đã tôn phong Catarina lên bậc hiển thánh vào năm 1491. Với bao nhiêu công đức, với những tư tưởng đạo đức, thần bí theo đúng tinh thần Phúc Aâm, thánh nữ Catarina thành Xiêna đã được Hội Thánh cất nhắc lên bậc tiến sĩ Giáo Hội.

Lạy Chúa, Chúa đã đốt lửa yêu mến nồng nàn trong lòng thánh nữ Catarina Xiêna, khiến thánh nữ vừa thiết tha chiêm ngưỡng Đức Kitô chịu khổ nạn, vừa hăng say phục vụ Hội Thánh. Xin nhận lời thánh nữ chuyển cầu, cho dân Chúa biết thông phần khổ nạn với Đức Kitô, để được vui mừng chiêm ngưỡng vinh quang Chúa” (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Ca-ta-ri-na Xi-ê-na, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh).
 

langvuon

khoai nướng
Ðề: Lịch Phụng Vụ 4/2011

Thứ Bảy 30 Tr
Thứ Bảy sau Chúa Nhật thứ I Mùa Phục Sinh
Lễ nhớ Thánh Piô V, Giáo Hoàng
Cv 4: 13-21 Tv 118: 1, 14-15, 16-18, 19-21 Mc 16: 9-15
Kính thánh tử đạo Giuse Tuân, Lm.

Ngày 30 tháng 04
Thánh Giáo Hoàng Piô V
(1504 -- 1572)

Ðây là vị giáo hoàng mà công việc của ngài là thi hành nghị quyết của Công Ðồng Tridentinô cách đây bốn thế kỷ. Nếu chúng ta nghĩ các giáo hoàng đương thời phải gặp những khó khăn nào trong việc thi hành nghị quyết của Công Ðồng Vatican II, thì Ðức Piô V lại gặp nhiều khó khăn hơn sau công đồng lịch sử đó.

Ðức Piô V sinh trong một gia đình nghèo ở Bosco, nước Ý. Tên rửa tội là Antôniô Micae và vì gia đình quá nghèo nên cậu phải đi chăn cừu. Trong dịp gặp gỡ hai tu sĩ dòng Ða Minh, vì thấy sự thông minh cũng như nhân đức của cậu, họ đã xin phép gia đình đưa cậu về sống với họ, lúc ấy cậu mới 12 tuổi. Sau một thời gian tu tập, Antôniô Micae được thụ phong linh mục năm 1528, sau đó được bổ nhiệm làm giáo sư triết và thần học ở Genoa. Trong mười sáu năm kế đó, Cha Micae đi khắp các cơ sở của nhà dòng để khuyến khích việc tuân giữ Quy Luật Dòng cách nghiêm nhặt qua lời nói cũng như hành động của ngài.

Năm 1555, Cha Micae được tấn phong làm Giám Mục của Nepi và Sutri, và năm 1557, ngài được nâng lên hàng Hồng Y. Năm 1566, Ðức Giáo Hoàng Phaolô IV từ trần và Ðức Hồng Y Micae được chọn làm người kế vị, lấy tên là Piô V.

Trong nhiệm kỳ giáo hoàng của ngài, 1566 -- 1572, Ðức Piô V phải đối diện với một trách nhiệm thật lớn lao đó là phục hồi một Giáo Hội vụn vỡ và phân tán. Dân Chúa thời ấy bị rúng động bởi sự thối nát của hàng giáo sĩ, bởi cuộc Cải Cách Tin Lành, bởi sự đe dọa xâm lăng thường xuyên của người Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1545, vị giáo hoàng tiền nhiệm triệu tập Công Ðồng Tredentinô nhằm cố giải quyết các vấn đề khẩn trương nói trên. Trong vòng 18 năm, các Giáo Phụ thảo luận, lên án, xác nhận và quyết định trong một chuỗi hành động. Và Công Ðồng kết thúc năm 1563.

Năm 1566, Ðức Piô V lên ngôi giáo hoàng và phải đảm nhận công việc cải cách tức thời do Công Ðồng đưa ra. Ngài ra lệnh thành lập các chủng viện để huấn luyện các linh mục một cách thích hợp. Ngài cho công bố sách lễ mới, kinh nhật tụng mới, sách giáo lý mới và thiết lập quy chế giáo lý cho trẻ em. Ðức Piô cương quyết áp dụng kỷ luật đối với những lạm dụng trong Giáo Hội. Ngài kiên trì phục vụ người nghèo và người đau yếu qua việc xây cất các bệnh viện, cung cấp thực phẩm cho người nghèo đói và lấy tiền quỹ thường để tổ chức tiệc tùng cho đức giáo hoàng mà giúp đỡ các người tân tòng nghèo ở Rôma.

Trong cố gắng cải tổ Giáo Hội và Tòa Thánh Vatican, Ðức Piô gặp sự chống đối mãnh liệt của Nữ Hoàng Elizabeth của Anh và Hoàng Ðế Maximilian II của Rôma. Các khó khăn ở Pháp và Hòa Lan cũng cản trở cho sự hợp nhất Âu Châu để chống với Thổ Nhĩ Kỳ. Mãi đến giây phút cuối cùng ngài mới có thể tổ chức được một đạo quân và chiến thắng ở Vịnh Lepanto gần Hy Lạp vào tháng Mười 1571.

Sự hoạt động không ngừng của Ðức Piô trong việc canh tân Giáo Hội được dựa trên cá tính của ngài là một tu sĩ dòng Ða Minh. Ngài dành nhiều giờ để cầu nguyện với Thiên Chúa, nghiêm nhặt chay tịnh, tự thoái thác những thói quen xa hoa của giáo hoàng thời ấy và trung thành tuân giữ quy luật cũng như tinh thần của Dòng Ða Minh.

Ðức Piô từ trần năm 1572.

Lời Bàn

Trong đời sống cá nhân và trong hành động của các giáo hoàng, cả Ðức Piô V và Phaolô VI đều dẫn dắt gia đình Thiên Chúa trong một tiến trình cải tổ nội bộ nhằm đáp ứng với những thúc giục của Thần Khí trong các Công Ðồng chính yếu. Với sự hăng say và kiên nhẫn, Ðức Piô và Phaolô theo đuổi những thay đổi do các Giáo Phụ trong Công Ðồng đề ra. Cũng như Ðức Piô và Phaolô, chúng ta cũng được mời gọi để liên tục thay đổi tâm hồn và đời sống.

Lời Trích

"Trong đại hội toàn cầu này, trong thời gian và không gian đặc ân này, quá khứ, hiện tại và tương lai như quy tụ lại. Quá khứ: vì ở đây, tụ họp ở địa điểm này, chúng ta có Giáo Hội của Ðức Kitô với truyền thống, lịch sử, các Công Ðồng, các tiến sĩ và các thánh của Giáo Hội; hiện tại: chúng ta đang từ giã nhau để đi vào thế giới ngày nay với những bất hạnh, đau khổ, tội lỗi của nó, nhưng cũng có những thành công, giá trị và đức tính của nó; và tương lai ở đây trong lời kêu gọi khẩn trương của những người dân trên thế giới muốn được công bình hơn, trong ý muốn hòa bình, trong khát khao có ý thức hay vô thức về một đời sống cao đẹp hơn, một đời sống mà Giáo Hội của Ðức Kitô có thể đem lại và muốn trao ban cho họ" (trích từ diễn văn bế mạc Công Ðồng Vatican II của Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI).


Ngày 30 tháng 04
Thánh Giuse TUÂN ( HOAN)
Linh mục dòng Đaminh (1811-1861)

Chứng nhân tình thương

Thiên Chúa luôn luôn tác tạo những mùa xuân tươi đẹp. Ngài ban cho mùa màng tiếp tục sinh hoa kết trái. Cũng thế do bàn tay uy quyền và rộng rãi của Ngài Thiên Chúa sẽ gieo vãi trên mỗi thế hệ đang lên đầy đủ những đức tín dịu hiền nhân ái, để nâng đỡ những người buồn thảm, hỗ trợ những kẻ lâm nguy. Tương lai sẽ do tình thương, vì không sớm thì muộn, tình thương sẽ thắng sự oán thù". (Fx. Ronsin).

Linh mục Giuse Tuân đã sống và chết hiên ngang để làm chứng cho Thiên Chúa, Đấng sáng tạo muôn loài, mà con người là thụ tạo được Ngài yêu thương hơn cả, đến nỗi ban chính con một Ngài là Đức Giêsu Kitô, để cho thế gian được ơn tái sinh vào sự sống viên mãn cùng Ngài (Ga 10,10).

Giuse Tuân chào đời vào khoảng năm 1811 tại họ Trần Xá, xứ Cao Xá, tỉnh Hưng Yên, nay là Hải Hưng. Tuy là gia đình nông dân nghèo, nhưng cha mẹ cậu là người đạo đức tận tâm giáo dục con cái. Từ cái nôi ấm cúng đó, Giuse Tuân đã lớn lên trong chân lý đức tin và tình thương của Thiên Chúa, của cha mẹ và của mọi người.

Từ thiếu niên cậu cậu Tuân đã được nhận vào nhà Đức Cúa Trời học tập và sống ting thần phúc âm. Sau đó cậu được chọn vào học chủng viện, rồi thụ phong Linh Mục, trở thành ngưới phục vụ Tin Mừng trong thời bách hại tàn khốc nhất dưới triều đại vua Tự Đức, với nhiều cuộc bắt bớ nhằm tiêu diệt các giáo sĩ và giáo dân trên đất Việt.

Để có cơ hội công tác chặt chẽ hơn với các thừa sai Đaminh trong công cuộc truyền giáo, năm 1857, cha Giuse Tuân xin vào dòng Anh em thuyết giáo (trong dòng gọi cha là Hoan). Năm 1858, cha được tuyên khấn trong dòng và trở thành một tu sĩ gương mẫu đạo đức.

Truyền bá tình thương

Trước cơn bách hại tàn bạo của vua Tự Đức, vì lo lắng cho đàn chiên bơ vơ, cha Tuân đã lẩn trốn để có thể âm thầm phục vụ cho con cái trong hoàn cảnh khó khăn. Đầu năm 1861, khi cha đang giúp ở xứ Ngọc Đồng, một bà già bị bệnh nặng sai con trai đi mời cha Tuân về ban bí tích sau cùng cho bà. Không ngờ người con ngỗ nghịch này vì ham lợi lộc đã trở thành kẻ phản bội. Hắn đi tố giác với quan huyện để lãnh thưởng. Quan liền bắt cha giải lên tỉnh Hưng Yên nộp cho quan Tổng đốc.

Tại công đường, dù cha Tuân bị hành hạ, tra tấn. Gông cùm… vẫn hiên ngang trung thành với thày chí Thánh. Cha một mực làm chứng cho niềm tin của mình vào Đức Giêsu dù hy sinh cả mạng sống. Hân hoan với diễm phúc tử đạo sắp được lãnh nhận, bất chấp những đau đớn và khổ hình trong tù, cha vẫn tiếp tục rao giảng tình thương vô biên của Thiên Chúa. Cha khích lệ tinh thần những anh em tín hữu đang bị giam cầm, an ủi những anh em giáo hữu đến thăm cha và ban bí tích cho họ.

Trong tình yêu Thiên Chúa

Cuối cùng người chiến sĩ anh dũng đã chạy tới đích. Sau nhiều cực hình trong mấy tháng trời, án trảm quyết cha Tuân được vua Tự Đức châu phê. Và ngày 29-04-1861, cha bị đem ra ph1p trường Hưng Yên xử chém.

Tại pháp trường một giáo hữu chứng kiến cảnh hành quyết cha, bà Anna Bình đã làm chứng trong hồ sơ phong thánh như sau :

"Tôi đã thấy người tôi tá Chúa (cha Tuân) đi lãnh án tử với thái độ nghiêm trang, dũng cảm và hân hoan. Cha phải bước đi khó khăn chậm chạp vì hai chân bị xiềng xích nặng nề. Khi tới nơi xử, cha quỳ gối xuống kêu tên cực thánh Chúa Giêsu, biểu lộ lòng tin yêu và phó thác, rồi bình thản đón chờ cái chết. Có nhiều người đã chứng kiến cái chết oai hùng của cha. Tôi đến gần và lấy vải thấm máu cha vừa đổ xuống".

Đúng 90 năm sau ngày vị anh hùng đức tin về Thiên Quốc ngày 29-04-1951. Đức Piô XII suy tôn linh mục Giuse Tuân lên bậc chân phước cùng với 24 vị thánh tử đạo khác trên đất Việt. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.
nguồn FatimaCompany​