Mẹ MARIA dạy sống Kinh Mân Côi

langvuon

khoai nướng
Chúa Nhật 01 Tr
Chúa Nhật thứ II Mùa Phục Sinh
Thánh Giuse Thợ
Cv 2: 42-47 Tv 118: 2-4, 13-15, 22-24 1 1Pr 1: 3-9 Ga 20: 19-31
Kính thánh tử đạo Augustinô Đông, Gioan Alôsiô Hương, Lm.

THÁNH GIUSE THỢ


Ngày 01/5 Đời sống lao động luôn gắn liền với con người: người ta có thể làm việc chân tay và có người dùng tới trí óc. Tất cả đều là lao động.Có một thời giới thợ thuyền đã đứng lên tranh đấu để nâng cao phẩm giá và nâng cao đời sống của họ vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ thứ XX tại Aâu Châu. Nhiều phong trào đấu tranh đã nổi dậy đòi giới chủ ông phải tăng lương và xem xét lại giờ giấc, điều kiện lao động. Giáo Hội qua các vị lãnh đạo tinh thần đã lắng nghe tiếng nói, tiếng cầu cứu của họ. Đức Thánh Cha Lêô XIII và Piô XI đã mở ra những chân trời mới trong giới lao động. Đức Giáo Hoàng Piô XII đã chọn Thánh Giuse làm bổn mạng của giới cần lao. Thế giới đã dùng ngày 01 tháng năm để mừng ngày lễ lao động.

THÁNH GIUSE LÀ AI ?

Thánh Giuse sinh tại Nagiarét, một thôn nhỏ bé và nghèo thuộc nước Do Thái. Thánh Giuse thuộc hoàng tộc vua Đavít, nhưng vì gia cảnh sau bao nhiêu đời, bao nhiêu thế hệ lâm cảnh sa sút, nên thánh Giuse phải sống cuộc đời khó khăn, nghèo nàn với nghề thợ mộc để kiếm sống, nuôi gia đình. Thánh Giuse là một người lao động chân chính. Cuộc đời của Ngài là một chuỗi những thử thách triền miên. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã chọn Ngài làm bạn Đức Trinh Nữ Maria và là Cha của Chúa Giêsu Cứu Thế. Suốt đời của Ngài năm chìm bảy nổi chín long đong. Được chọn lựa làm bạn với Mẹ Maria để săn sóc Con Một Thiên Chúa và để giúp nhau sống đời tận hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa. Thánh Giuse đã gặp thử thách ngay khi đính hôn với Maria. Đức Trinh Nữ Maria đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần:” Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu”( Lc 1, 31). “ Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà…”( Lc 1, 35 ). Thánh Giuse lúc đó chưa hiểu ý Chúa, nên Ngài đã bị thử thách lớn lao. Rồi, thánh Giuse và Mẹ Maria đi về quê quán làm sổ hộ khẩu, Mẹ Maria tới ngày mãn nguyệt khai hoa, đã đản sinh Chúa Giêsu nơi hang đá Bêlem(Lc 2, 1-20 ). Như thế vẫn chưa hết, khó khăn và thử thách hầu như lúc nào cũng gắn liền với thánh Giuse: thánh Giuse đưa Mẹ Maria, Chúa Giêsu trốn qua Ai Cập để tránh sự tàn bạo của Hêrôđê, rồi khi Hêrôđê băng hà, Ngài lại đưa Mẹ Maria và Hài Nhi Giêsu trở về Nagiarét( Mt 2, 13-23 ). Rồi tới tuổi, thánh Giuse lại đưa Chúa Giêsu cùng với Mẹ Maria dâng Chúa vào đền thờ: Oâng già Siméoon nói ngôn sứ về Hài Nhi( Lc 2, 22-28 ). Trong mọi biến cố, trong mọi sự chông gai khó khăn, thánh Giuse luôn can đảm, phó thác và sống hoàn toàn công chính, tin cậy tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa Giavê. Thánh Giuse đã được các thánh sử viết Tin Mừng ca ngợi là người công chính, người được ơn nghĩa với tHiên Chúa. Giáo Hội ca ngợi thánh Giuse:” Người công chính tươi tốt như cây dừa, lớn lên như cây hương nam núi Liban trồng nơi nhà Chúa trong đền thánh Người (Tv 92, 13-14 ) và ca nhập lễ, lễ thánh Giuse 19/3 đã viết:” Đây là người quản gia trung tín và khôn ngoan. Chúa đã đặt lên coi sóc gia đình Chúa”( Lc 12, 42 ). Thánh Giuse quả thực trở thành gương mẫu cho mọi người về mọi nhân đức.

THÁNH GIUSE LÀ MẪU GƯƠNG LAO ĐỘNG CẦN CÙ

Đứng đầu gia đình thánh tại Nagiarét, thánh Giuse đã cần cù lao động, âm thầm thinh lặng và làm việc, đưa lại cho lao động một ý nghĩa cao sâu linh thánh. Thánh Giuse đã chấp nhận một công việc, một nghề tay chân: nghề thợ mộc. Với nghề thợ mộc, một nghề không có gì là vinh dự lắm trong xã hội Do Thái, thánh Giuse vẫn kiên trì phục vụ. Ngài làm việc với tất cả ý thức trách nhiệm của mình. Qua việc làm, qua nghề thợ mộc, thánh cả Giuse đã âm thầm chiêm ngắm mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô, Đấng đang sống nhờ nghề thợ mộc của Ngài. Nơi Nagiarét, thánh Giuse đã phục vụ hết mình: mồ hôi, sự mệt nhọc và lòng hy sinh, quảng đại cố gắng của thánh Giuse đã mặc cho lao động một ý nghĩa tốt đẹp. Chúa Giêsu trong gia đình thánh nagiarét đã học nơi thánh Giuse sự cần mẫn lao động, đã học nơi Mẹ Maria sự kiên nhẫn, đơn sơ phục vụ trong những công việc gia đình hết sức tầm thường nhưng là những công việc của đời thường, là những lao công của cuộc đời con người. Khởi đi từ gia đình Nagiarét, người Kitô hữu trên khắp thế giới cũng được mời gọi yêu mến lao động dù là lao động chân tay hay lao động trí óc. Tất cả đều được gọi mời gắn liền với thánh cả Giuse, quan thầy và là Đấng bảo trợ của giới lao động. Trong một thế giới đan xen ánh sáng và bóng tối, trong một thế giới văn minh tuyệt đỉnh, lao động dù trí óc, chân tay hay kỹ thuật máy móc điện tử vẫn luôn cần thiết. Sự im lặng: nói ít, làm với hết khả năng, với óc sáng tạo luôn được đề cao, trân trọng. Thánh Giuse đã im lặng để phục vụ, để làm việc. Sự thinh lặng nội tâm của Ngài luôn có một ý nghĩa quan trọng. Thánh Giuse đã luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm: làm việc với đức tin , với lòng yêu mến.

Trong năm thánh hoá gia đình, việc lao động cũng cần được mọi gia đình xem xét lại vì cuộc đời của từng con người liên kết với công ăn việc làm của mình. Gia đình có đủ ăn, đủ mặc, gia đình có bảo đảm được vật chất, kinh tế của mình, đời sống tâm linh mới tốt hơn. Thánh Giuse đã nêu gương cần lao, đã biến gia đình Nagiarét thành trường đào tạo công ăn việc làm với tất cả lòng tin yêu. Chúa Giêsu cũng đã xuất thân trong gia đình Nagiarét, đã chấp nhận một công việc và làm cho việc lao động tràn đầy ý nghĩa. Mẹ Maria cũng đã làm việc nội trợ với tất cả ý thức, với tất cả lòng tin yêu của mình. Mừng lễ thánh Giuse thợ 01 tháng 5, xin thánh cả Giuse cầu thay nguyện giúp để mọi người, mọi gia đình luôn yêu mến công việc của mình vì những công việc chân chính sẽ giúp cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa. Lạy Thiên Chúa tạo thành trời đất, Chúa đã muốn cho con người lao động để tiếp tục công trình của Chúa. Xin nhận lời thánh cả Giuse chuyển cầu, cho chúng con biết noi gưong Người để lại là chu toàn nhiệm vụ Chúa đã giao phó, hầu được hưởng niềm vui Chúa đã hứa cho tôi tớ trung thành( lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Giuse thợ ).

Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT

.........................................................

Ngày 01 tháng 05
Thánh Augustinô SCHOEFFLER ĐÔNG
Linh mục thừa sai Paris (1822-1851)

Ơn gọi loan báo tin mừng

Đối với thánh Augustinô Đông sứ mệnh loan báo Tin Mừng là một nhiệm vụ cao cả nhất. đặc biệt cho những vùng truyền giáo xa xôi. Đó là điều thánh nhân hằng mong ước khi gia nhập hội Thừa Sai Paris. Mặc cho gia đình nhiều lần đã cản trở, thánh nhân đã một lòmh dứt khoát theo ý Chúa hơn nghe lời cha mẹ trần gian, và khi rời đất Pháp ngài đã nói: “Tôi không biết điều gì sẽ xảy đến với tôi, nhưng điều tệ nhất có thể đến, đó là phải chịu một nhát gươm... Nhưng tôi tin rằng người tội lỗi như tôi sẽ chẳng đáng được ơn trọng ấy”.

Augustinô Đông sinh ngày 22-11-1822 tại Mittelbronn tỉnh Lorraine, nước Pháp. Từ bé, cậu đã tỏ ra là một người đạo đức, chăm học, siêng năng cầu nguyện và có ý hướng đi tu. Cha xứ nhận đỡ đầu và đưa vào chủng viện giáo phận Nancy. Trong chủng viện cậu tuân giữ đúng đắn kỷ luật, vâng lời bề trên, hoà thuận với bạn bè và học hành xuất sắc, nên được mọi người yêu mến, sau khi học triết học và năm thứ nhất thần học, thày Augustinô Đông cảm thấy Chúa kêu gọi mình đi truyền giáo nên xin phép ba mẹ chuyển qua hội Thừa Sai Paris.

Thời gian đó, những tin tức về công cuộc truyền giáo ở Đông Nam Á gởi về không được sáng sủa. Đi truyền giáo như đi vào cỏi chết. Do đó song thân thày cố sức ngăn cản. Ông bà nói nhiều lời nặng nề khiển trách con không vâng lời. Augustinô Đông đắn đo nhiều nhưng căn cứ vào lời Chúa: “Ai yêu cha mẹ hơn thày thì không đáng làm môn đệ thày.” (Mt.10,37). Augustinô Đông quyết định gia nhập hội Thừa Sai Paris dù cha mẹ không đồng ý. Khi đó thày viết thư cho một người bạn: “Than ôi, để theo chân Chúa Giêsu vất vả quá, vướng đường nọ mắc đường kia”. Người bạn đó nhắn nhủ: “Việc giảng đạo là việc quan trọng, nếu tự ý làm mà không được Chúa gọi thì nguy cơ mất linh hồn đó”. Thày trả lời: “Xin đừng quên lời Kinh Thánh: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta.”

Không để ai liên luỵ

Gia nhập hội Thừa Sai ngày 09-10-1846 thì ngày 29-05-1847, thày Augustinô Đông được thụ phong linh mục. Sau đó được gởi đến giáo phận Tây Đàng Ngoài. Đức Cha Retordd Liêu, vui mừng đón tiếp giữ cha lại trụ sở học tiếng và phong tục Việt Nam, rồi cho cha tháp tùng trong các cuộc kinh lý để hiểu rõ tình hình hơn. Sau đó cử cha lên coi xứ Đoài. Trong nhiệm sở mới cha Đông tích cực làm việc mục vụ và truyền giáo, số người trở lại ngày càng nhiều. Khi vua Tự Đức ra chiếu chỉ cấm đạo năm 1848, cha nói: “Kỳ này trong chúng tôi thế nào cũng có kẻ bị chém, chớ gì người đó là tôi.” Thế nhưng cha vẫn an toàn làm việc trong ba năm.

Ngày 01-03-1851, sau khi đến giảng phòng mùa chay cho xứ Bầu Nọ, cha Đông đi đường rừng qua giảng ở Bản Mộ thì bị quân lính bắt. Thời đó cuộc nổi loạn của Hoàng Bảo (Trưởng tử của vua Thiệu Trị) mới thất bại, lính tuần dinh đang truy lùng các thành viên còn xót lại. Tín hữu Bầu Nọ cũng biết chuyện, nhưng chủ quan lính chỉ đi lùng vào ban đêm, nên đưa cha Đông đổi chỗ giữa ban ngày, không ngờ có một tín hữu ham tiền đã đi báo cho quan. Họ bố ráp và bắt cha đang len lỏi trong rừng rậm. Một linh mục Việt và hai chú giúp lễ cũng bị bắt với Ngài.

Quan tuần phủ địa phương tuyên bố mình không có ý giải nộp vị Thừa Sai, và ra giá chuộc là một nén vàng với 100 nén bạc, chợt hiểu ra rằng những người này dù đòi được tiền rồi, cũng nộp mình cho quan lớn như thường, nên cha nói: “Vì quý ông nhất thiết đòi tiền chuộc, hãy thả những người này về, chỉ có họ mới biết chỗ tôi để tiền” Quan tuần trưởng thật trả tự do cho cha Việt Nam và hai chú giúp lễ. Phần cha Đông khi thấy họ đã đi xa, mới nói rõ ý muốn chỉ một mình bị bắt thôi.

Tức giận viên quan

cho giải cha lên tỉnh Sơn Tây. Dọc đường gặp một người tín hữu, cha nói: “Hãy về nói với anh chị em đừng lo sợ gì hết, dù thế nào tôi cũng không khai một ai cả”. Khi đến tỉnh các quan điều tra về quê quán, tên tuổi, đến An Nam bao lâu, cư trú những nơi nào, có biết vua cấm đạo không. Cha đáp:

“Tôi tên là Augustinô Đông, quê ở nước Pháp, năm nay 29 tuổi, tôi đến đây để gảing đạo Đức Chúa Trời. Tôi đã biết An Nam cấm đạo ngặt, nhưng tôi không sợ xử tử. Còn việc ở đâu tôi sẽ không nói, đừng hỏi nữa làm gì.”

Ngày 05-03, lại bị điệu ra tòa, cha Đông vẫn khai như cũ và cương quyết từ chối bước qua Thánh Giá, nên ngày hôm đó các quan gởi án về kinh đô: “Tên Ao-du-tinh là người Tây dám coi thường việc nước, đến đây giảng đạo dân chúng. Chiếu theo sắc chỉ Đức Vua, y phải chịu trảm quyết, bỏ đầu trôi sông. Về những kẻ chứa chấp, thần đã tra hỏi nhưng y không chịu nói. Lý trưởng và những kẻ có công, xin theo lời truyền, thưởng 30 lạng bạc. Riêng viên tuần phủ, xin thưởng thêm một số nữa”. Tuy nhiên mãi đến tháng 04-1851, nhà vua mới châu phê bản án.

Suốt một tháng tù, cha Đông bị quản thúc rất chặt chẽ. Một thày giả làm lính canh đến gần ngục mà vẫn không nói gì. Khi thấy cha thày thổn thức muốn khóc nên phải vội trở ra ngoài ngay, sợ bị lộ. Một tín hữu quan hệ riêng với quan cai ngục để vào tiếp tế ít nải chuối, vô tình quan tỉnh đi ngang qua nhìn thấy, liền ra lệnh sa thải viên cai ngục đó. Tuy nhiên dù nghiêm ngặt như thế, cha Phượng cũng vào giải tội cho Ngài được một lần, nhờ giả dạng làm người bán hàng rong.

Ngày 11-04 bản án của vua ra đến Tây Sơn: “Trẫm đã cứu xét hồ sơ tây dương đạo trưởng ở Sơn Tây. Luật nước đã cấm đạo Gia-tô. Thế mà tên Ao-du-tinh vẫn cả gan vào nước ta giảng đạo lừa dối dân. Trẫm truyền trảm quyết, đầu y thì bỏ trôi sông để răn dạy kẻ khác”. Bản án xác định ngày xử là 01-05 Dương lịch, đúng ngày đầu tháng hoa dâng kính Đức Mẹ. Cha Đông nghe tin đó thì thì vui mừng quỳ xuống đất tạ ơn Chúa và Đức Mẹ đã xếp đặt cho mình được tử đạo vào ngày đầu tháng Đức Mẹ.

Ngày khải hoàn

Ngày xử diễn ra như một ngày hội, cha Đông đi chính giữa, hai bên là 8 binh sĩ tay cầm gươm sáng loáng, phía trước là hai hàng lính, mỗi hàng 50 người, một hàng cầm súng hàng kia cầm giáo. Khi có hiệu lệnh, lính ở hai hàng bắt chéo súng và gíao làm thành một cổng chào. Phía sau có hai thớt voi trận chở hai quan giám sát. Vị chứng nhân đi giữa hàng rước, cười tươi tỉnh như ngày khải hoàn. Cổ mang gông, đầu ngẩng cao, hai tay ôm xích sắt để khỏi vướng, cha thỉnh thoảng nhắm mắt lại để cầu nguyện. Đức cha Retord Liêu sau này đã phải kêu lên: “Đẹp biết bao cái chết của vị tử đạo !”. Hầu hết mọi người hiện diện hôm đó bao quanh cha đều sửng sốt và thán phục.

Khi đến nơi xử, pháp trường năm Mẫu, cha Đông quỳ xuống cầu nguyện một lát, rồi cầm thánh giá đeo trên cổ một cách cung kính hôn ba lần, đoạn cởi áo đưa đầu cho lý hình và nói: “Anh làm nhiệm vụ nhanh lên”. Quan giám sát nghe thấy cản lại: “Không được phải chờ đến hồi chiêng thứ ba mới được chém”. Hôm đó người lý hình run sợ quá, nên chém ba nhát mà vẫn chưa đứt. Phải lấy gươm cắt phần thịt còn lại. Đầu vị tử đạo bị bỏ trôi sông mất tích. Thi thể ngài được chôn cất tại chỗ, sau hai đêm tín hữu cải lên đem về an táng ở họ Bách Lộc.

Đức Giáo Hoàng Lêô XIII suy tôn cha Augustinô Đông lên bậc chân phước ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Thánh Gioan Louis BONNARD HƯƠNG
Linh mục thừa sai Paris (1824 -1852)

Quê hương và trầm hương

Cuộc đời thánh Louis Hương, và nhất là cuộc tử đạo của Ngài gắn liền với tên gọi đã được Đức Cha Retordd Liêu đặt cho khi mới tới Việt Nam. Chúng ta có thể thấy rõ ý của vị giám mục qua lá thư gởi cho thánh nhân ở trong tù.

“Tôi đã chúc lành cho cha khi đặt cho cha danh xưng đẹp đẽ CỐ HƯƠNG, nghĩa là người cha của quê hương là hương trầm và là hương thơm. Chính lúc này đây quê hương yêu dấu đó đang xuất hiện cho cha trong ánh huy hoàng, vì cha sắp là một trong những công dân hạnh phúc. Chính lúc này đây hương trầm chuẩn bị đốt lên trên bàn thờ tử đạo và bay đến tận ngai Đấng Vĩnh Cửu, chính lúc này đây hương thơm đáng ca ngợi sẽ làm hài lòng Đức Giêsu như bình hương của cô Malađêna, sẽ làm cho Thiên Thần và loài người, trời và đất hân hoan vì hương vị ngọt ngào của nó.”

Vậy đó, suốt đời thánh nhân đã rao giảng về quê hương trên trời, đã chịu đốt cháy trong lao khổ và tỏa hương thơm ngào ngạt cho ngàn muôn thế hệ.

Gioan Louis Bonnard sinh ngày 01-03-1824 tại St. Chisrtoten-Jarret, giáo phận Lyon, nước Pháp. Năm 12 tuổi, cha mẹ lo liệu cho cậu vào chủng viện Alixe. Tuy học hành không xuất sắc, cậu được mọi người mến thương vì tính hiền lành và đời sống đạo đức. Trong thời gian này, cậu được nghe nhiều tin tức và mẫu gương truyền giáo ở vùng Viễn Đông, nên cũng ước ao sang Việt Nam giảng đạo. Ngày 04-11-1846, Bonnard xin vào hội Thừa Sai Paris hoàn tất chương trình thần học và thụ phong linh mục ngày 14-12-1848. Đầu năm 1849, cha Bonnard lên đường sang Việt Nam.

Khi vừa đến Phố Mới (Singapour), các bề trên định cử cha sang Ai Lao. Nhưng vì đường bộ không thể đi được, cha phải vòng về Hương Cảng tìm đường khác. Cuối cùng các bề trên quyết định bổ nhiệm cha vào Giáo phận Tây Đàng Ngoài. Đức Cha Liêu đón tiếp cha ân cần, đặt tên mới là Hương và tạo điều kiện học ngôn ngữ và phong tục ngôn ngữ Việt Nam.

Trái chín của trời cao

Sau đó Đức Cha đặt cha Hương coi hai xứ Kẻ Trình và Kẻ Báng. Mùa chay 1852, cha mời 5 linh mục Việt Nam đến giảng phòng cho xứ Kẻ Báng, nhiều tín hữu ở chung quanh cũng đến dự. Cuối tuần tĩnh tâm, một số tín hữu ở họ Bối Xuyên mời cha Hương về giúp cho xứ của mình. Khi đó vua Tự Đức đã ra chiếu chỉ cấm đạo gay gắt, nên cha lưỡng lự mãi nhận lời. Ngày 21-03-1852 tại Bối Xuyên, sau khi dâng lễ cha ban bí tích rửa tội và làm nghi lễ bù cho một số trẻ em thì thấy quân lính đến bao vây làng. Một viên quan bị cách chức muốn lập công, đã báo tin cho quan huyện biết. Cha Hương vội cởi áo lễ, chạy băng qua đồng lúa, nhưng vì nước ngập đến thắt lưng nên không thoát kịp và bị bắt. Trên đường áp giải cha về huyện, quân lính đi nhanh quá cha nói với họ rằng: “Anh nào gấp cứ đi trước, còn tôi lúc nào đến cũng được, chẳng có gì phải vội” lính mới đi chậm lại.

Đức cha Liêu nghe tin cha bị bắt liền cho người đem tiền đến chuộc, nhưng quan huyện không tiếp. Đức cha gởi thư cho cha Hương như sau: “Theo tính tự nhiên, việc cha bị bắt làm tôi buồn phiền quá đỗi. Tôi rất đau lòng khi bị mất cha, đang lúc cha có thể đảm trách những nhiệm vụ lớn lao cho miền truyền giáo. Có thể thấy rõ rằng cha được hạnh phúc là người con rất yêu dấu của Đức Kito âkhổ nạn, nếu không nghĩ như thế, tôi muốn khiển trách cha. Tại sao đang ở một nơi có thể phục vụ đắc lực hơn nữa, cha bỏ Kẻ Báng để chui đầu ngõ cụt Bối Xuyên?”

“Tại Kẻ Báng, cha đã gặt hái biết bao nhiêu thành quả. Những bó lúa chín vàng ở đây thật nhiều, thật nặng với những hạt lúa chắc nịch. Tại đây cha đã ép cho Chúa Cha tràn lan thứ rượu nho là các nhân đức « Thôi, tôi sẵn sàng tha thứ cho cha, vì chính Thiên Chúa đã muốn thế. Dưới mắt Ngài cha là trái cây chín mọng giữa trời cao, trái cây sắp được Ngài hái về.”

Ngọt ngào biết bao đau khổ vì Đức Kitô

Quan huyện chỉ giam giữ cha một đêm, sáng sớm hôm sau cho áp giải Ngài đến Nam Định. Hơn một tháng tù cha bị đưa ra tra khảo bốn lần. Cũng như các vị thừa sai khác, quan Tổng Đốc hỏi cha về tên tuổi, quê quán, lý do đến và những gì làm tại Việt Nam . nhiều lần các quan đã hỏi những nơi cha đã đi qua hay đã trú ngụ, và dọa đánh đòn nếu không khai. Cha đáp: “Các ngài muốn đánh thì cứ đánh, chư đừng mong tìm được một lời có hại đến tín hữu. Tôi đến đây để phục vụ cho đến chết. Các ngài sẽ lầm to nếu tôi tiết lộ điều gì dù rất nhỏ”. Khi các quan nói cha đạp lên Thánh Giá và dọa kết án tử hình, cha trả lời: “Tôi đã nói tôi không sợ đòn đánh hoặc cái chết, tôi sẵn sàng chịu tất cả.. Tôi không đến đây để chối đạo, hay làm gương xấu cho các Kitô hữu..”

Trong một lá thư cha Hương tâm sự rằng: “Nói chung trong mọi cuộc khảo cung, tôi có kinh nghiệm cụ thể hiệu lực lời Đức kitô: 'Các con đừng sợ phải trả lời những gì các quan trần thế, Chúa Thánh Linh sẽ nói thay các con'. (Mt.10,20). Thực vậy tôi không thấy bối rối chút nào, không thấy sợ gì và chưa bao giờ tôi nói tiếng Việt Nam dễ dàng và lưu loát như thế”.

Thứ sáu tuần thánh năm đó, Đức Cha Liêu tìm gởi cha Lê Bảo Tịnh vào ngục giải tội và đưa mình thánh. Cha Hương tâm sự: “Đã lâu chưa bao giờ tôi vui đến thế, khi mang trong mình vua các Thiên Thần. Quả thật phải vô tù mang gông xiềng để hiểu được việc chịu đau khổ vì Đức Kitô Đấng chúng ta hằng yêu mến, thật ngọt ngào biết bao. Các bạn tưởng gông cùm của tôi nặng lắm sao ? Ồ, không ngược lại tôi thấy vui mừng vì có thể nói như thánh Phaolô: “Người tù của Đức Kitô'.

Cha Hương cũng viết tư an ủi song thân rằng: “Cha mẹ đừng buồn khi hay tin con bị bắt giam và đổ máu vì Đức Kitô. Cha mẹ có yêu con thì hãy vui mừng vì được phúc trọng ấy sẽ có ngày cha mẹ và con đoàn tụ trên Thiên Đàng, khi đó chẳng còn lo phải xa cách nhau nữa.”

Về phần các quan, thấy không làm được cha xuất giáo thì viết án gởi về kinh đô rằng: “Chúng thần đã tra khảo nhiều lần nhưng y không chịu khai gì cả. Không cần kéo dài vụ án nữa, đây là tên mọi Tây một loại trọng phạm, hiển nhiên là đáng bị tử hình”

Nhận được tin về bản án, Đức Cha Liêu viết vào tù:

“Xin cha cứ bình an. Tôi sẽ săn sóc đặc biệt những bạn tù và những tín hữu của cha. Tôi sẽ là một người cha nhân từ của họ. Cha xin tôi ban phép lành, nhưng tôi đã chúc lành cho cha từ ngày cha mới đến, ơn lành đó vẫn ở với cha đến muôn đời, phải tôi đã chúc lành cho cha khi đặt tên cha là “CỐ HƯƠNG » Nguyện xin sức mạnh của Chúa cha nâng đỡ cha trên đấu trường cha sắp bước vào. Nguyện xin công nghiệp Chúa Con an ủi cha trên đồi Canvê cha sắp bước lên. Và nguyện xin tình yêu Chúa Thánh Thần sưởi ấm cha trong ngục tù, nơi cha sẽ khởi hành đi đón nhận nghành vạn tuế tử đạo”

Trong tay ngài, lạy chúa !

Và đây là bảng di chúc của vị chứng nhân: “Giờ long trọng đã điểm. Vĩnh biệt, xin chào tất cả mọi người đã thương mến và nhớ đến tôi. Xin hẹn gặp nhau trên trời. trông cậy vào lòng nhân từ của Đức Kitô, tôi tin Ngài tha thứ muôn vàn tội lỗi cho tôi, tôi tự nguyện hiến dâng mạng sống và máu vì yêu thương Người và vì những linh hồn yêu dấu mà tôi muốn phục vụ hết mình. Ngày mai thứ 7, ngày 01-05, lễ thánh Philiphê và Giacôbê Tông Đồ, giáp năm ngày sinh nhật trên trời của cha Đông, tôi nghĩ sẽ là ngày hiến tế của tôi. Xin cho ý Chúa được thể hiện. Tôi vui lòng chịu chết. Xin chúc tụng Chúa. Xin chào tất cả trong Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Trong tay Ngài lạy Chúa xin phó thác linh hồn con ngừơi tù của Đức Kitô”.

Sáng ngày 01-05-1852, cha Hương rước lễ lần cuối, vui vẻ theo quân lính ra pháp trường Bảy Mẫu, cách đó một dặm rưỡi về phía Nam. Đến nơi cha quỳ trên chiếu cầu nguyện. Cha phải chờ mộr giờ đồng hồ, vì quân lính quên mang dụng cụ tháo gông, phải chạy vền nhà kiếm. Sau đó họ trói vị chứng nhân vào cọc. Theo hiệu chiêng trống, lính chém đầu cha rơi trên cát. Dân chúng ùa vào thấm máu làm kỷ niệm, nhưng lính dùng roi đuổi tất cả ra xa, sau đó họ lấy áo ngoài, áo lót và hai ống quần cắt ra làm nhiều mảnh bán cho dân. Thân mình và đầu tử đạo được đưa lên thuyền bỏ trôi sông. Đức cha Liêu đã cho người đi một chiếc thuyền lảng vảng gần đó kịp thời vớt đưa về Vĩnh Trị. Đêm đó Đức Cha và vài linh mục âm thầm dâng lễ và an táng vị tử đạo trong chủng viện.

Ngày 27-05-1900, Đức Giáo Hoàng Lêô thứ VIII suy tôn cha Gioan Louis Bonnard Hương lên bậc chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
 

langvuon

khoai nướng
Ðề: Lịch Phụng Vụ tháng 5/2011

Thứ Hai 02 Tr
Thứ Hai sau Chúa Nhật thứ II Mùa Phục Sinh
Cv 4: 23-31 Tv 2: 1-3, 4-6, 7-9 Ga 3: 1-8
Kính thánh tử đạo Giuse Nguyễn Văn Lựu, Trùm họ

Thứ Ba 03 Đ
Thứ Ba sau Chúa Nhật thứ II Mùa Phục Sinh
Lễ kính Philipphê và Giacôbê, Tông Đồ
Cv 4: 32-37 Tv 93: 1, 1-2, 5 Ga 3: 7-15

Ngày 02 tháng 05
Thánh Giuse NGUYỄN VĂN LỰU
Trùm họ (1790 -1854 )

Một cuộc đời tốt đẹp

Sáu mươi tư tuổi đời, bao nhiêu là kỷ niệm, bao nhiêu là niềm vui, bao nhiêu là tình thương. 64 tuổi đời với những trách vụ và công việc xen lẫn với những khó khăn gian khổ, đói khát và bệnh tật của một người dân bình thường. Ông trùm Giuse Lựu tạ ơn Chúa vì 64 năm đó, và rồi ông chỉ còn chờ giây phút sau cùng để “Trả lại những quãng đời trần gian Chúa đã ban cho mình”. Giây phút đó đã đến sớm hơn lòng ông mong chờ. Sau cuộc tra tấn trong ngục tối im lặng âm thầm ông cảm thấy rõ giây phút đó từ từ đến. 64 tuổi đời sống làm con Chúa, còn lại chút hơi thở cuối cùng, ông cũng muốn thành kính dâng lên trọn vẹn chi Ngài. Ông bám vào bờ tường, cố gắng đứng dậy ngước mắt lên trời kêu tên cực trọng Chúa Giêsu và Đức Maria ba lần, và từ từ ngã xuống nền nhà ngục, hoàn tất 64 năn dương thế một cách tốt đẹp.

Sống để phục vụ

Chào đời năm 1790 tại họ Cái Nhum, tỉnh Vĩnh Long. Ngay từ thời niên thiếu, cậu Giuse Nguyễn Văn Lựu đã được hấp thụ một nền giáo dục gia đình Công Giáo đạo đức. Nhờ vậy sau này khi kết hôn, Giuse Lựu đã đem lại cho gia đình một nề nếp cao quý, môt bầu khí đầm ấm, yêu thương thấm nhuần tinh thần đạo hạnh Kitô giáo.

Được đề cử làm trùm họ, ông tỏ ra xứng đáng với lòng tín nhiệm. Quý mến của mọi người. Đặc biệt ông có tài hòa giải những cuộc xích mích. Nhờ uy tín cá nhân, ông phân tích rõ ràng ai phải, ai trái, rồi dẫn lời Chúa dạy trong Phúc Âm, ông mời gọi mọi người hãy tha thứ và làm hoà với nhau. Thế là mọi người nghe theo các lời chí tình, chí thiết của ông. Hơn nữa trong trách vụ này, ông còn thể hiện một tâm hồn nhiệt thành với việc tông đồ, một Kitô hữu đầy lòng bác ái. Cộng tác với các linh mục trong việc điều hành họ đạo, coi sóc các em thiếu nhi, giúp đỡ người nghèo. Ông đã hiến tất cả vườn ruộng để xây dựng một nữ tu viện. Hằng ngày ông vẫn rộng tay làm phúc cho những người nghèo khó. Cuộc đời của ông thật giống những người tôi tớ trung tín luôn luôn làm sinh lời những nén bạc Chúa ban.

Những nguy hiểm gây ra do sắc chỉ cấm đạo không làm cho ông Trùm họ Mặc Bắc sợ hãi. Trước biết bao hiểm nguy khó khăn, ông vẫn lo liệu để các linh mục có nơi ẩn náu, hầu có thể cử hành và trao ban các bí tích cho giáo hữu.

Ý chí sắt đá

Ngày 26-03-1853, quan quân vây làng Mặc Bắc để tìm bắt cha Lựu (thực ra bấy giờ cha Minh đã thay thế cha Lựu mà quan quân không biết), nhưng ngay lúc đó ông trùm Lựu can đảm trả lời: “Thưa các quan không có đạo trưởng Lựu ở đây. Lựu chính là tên tôi làm trùm họ này”. Quan quân nhìn ông chỉ thấy dáng dấp một nông dân nhà quê không có vẻ gì là đạo trưởng. Họ bèn lục soát kỷ hơn. Biết không thể trốn được cha Minh liền ra trình diện, mà họ nghĩ là cha Lựu và 6 giáo hữu bị giải về tỉnh Vĩnh Long.

Những hình khổ trong tù đã làm bốn người thối chí, họ muốn sống dễ dãi hơn. Những người yếu lòng ấy không chỉ phản bội Thiên Chúa họ còn đổ tội cho ông trùm Mặc Bắc là người tiếp đón và cho đạo trưởng chú ẩn. Họ nguyền rủa ông như là người gây ra mọi tang tóc, mọi khổ cực của họ. Riêng ông trùm Lựu, trước sau vẫn một mực trung kiên với Thiên Chúa, ông đón nhận những lời sĩ nhục và mọi đau khổ một cách khiêm tốn để đền bù những tội lỗi mình. Ông sẵn sàng đón nhận tất cả vì ông tin tưởng vào Thiên Chúa. Tín thác hoàn toàn nơi Ngài, lời tâm sự cùng linh mục cùng bị giam cho thấy ông có một niềm tin vững mạnh và tấm lòng hy sinh cao cả: “Thưa cha, xin cha cầu nguyện cùng Chúa để Chúa ban cho con sức mạnh và can đảm cần thiết. Con sắp phải đi đày, con xin trao cho Chúa tất cả mọi sự thuộc về con, con bằng lòng dâng cho Ngài hy sinh lớn lao hơn hết là gia đình vợ con, chính Chúa sẽ săn sóc vợ con của con.”

Còn gì cao quý và giá trị cho bằng một tình yêu trong Thiên Chúa. Đấng chính là Tình Yêu.

An nghỉ trong Chúa

Những hình khổ lao tù cuối cùng chỉ thắng được thân xác. Vì tuổi già sức yếu phải mang gông mang xiềng, nên đêm mùng một rạng mùng 02-05-1854. ông Trùm Giuse Lựu đã trút hơi thở cuối cùng. Vị chứng nhân trung thành đã xứng đánh lãnh nhận cành lá vạn tuế tử đạo, dù không bị trảm quyết.

Đám tang ông trùm Giuse Nguyễn Văn Lựu là trường hợp họa hiếm trong thời cấm đạo. Bất chấp mọi nguy hiểm có thể xảy đến, bốn linh mục và độ 2000 tín hữu đã tiễn đưa linh cửu đến an táng trong khu thánh đường họ Mặc Bắc.

Đức Giáo Hoàng Piô X đã suy tôn ông Trùm Giuse Nguyễn Văn Lựu lên bậc chân phước Ngày 02-05-1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Ngày 03 tháng 05
THÁNH PHILÍPPHÊ VÀ THÁNH GIACÔBÊ, (St. Philip and St. James)
Tông đồ, ngày 03/5

Ca nhập lễ ngày lễ hai thánh Philípphê và Giacôbê tông đồ có viết rằng: ” Đây là những vị thánh, Chúa đã lấy tình thương chân thành mà tuyển chọn và đã cho các Ngài được vinh quang muôn thuở “. Hại thánh Philípphê và Giacôbê đã được Chúa yêu thương cất nhắc, mời gọi để các Ngài trở nên cột trụ và nhân chứng cho Giáo Hội Chúa Kitô

ƠN GỌI CỦA CÁC NGÀI

Chúa kêu gọi ai, tuyển chọn, cất nhắc người nào là do tình thương nhưng không của Ngài.Trường hợp của hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê nói lên tình yêu thương vô biên của Chúa. Chúa đã mời gọi hai Ngài và tất cả hai Ngài, đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Thánh Philípphê ở Betsaiđê cùng quê với thánh Phêrô và Anrê, một làng quê trên bờ biển Tibêriát. Thánh Philípphê đã theo thánh Gioan tiền hô và sau này trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Thánh Philípphê đã bảo cho Nathan biết Đấng Cứu Thế đã đến và dẫn Nathan đến gặp Chúa Giêsu. Tin Mừng đã thuật lại những sự liên hệ mật thiết giữa Chúa Giêsu và thánh Philípphê.

Trước khi Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh và cá hóa nên nhiều, Ngài đã thử hỏi xem Philíphê có tìm đâu ra thức ăn cho số đông người ăn hay không ? Chính Philíphê trong bữa tiệc ly đã xin Chúa cho thấy Cha của Ngài:” Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha. Và như thế là chúng con mãn nguyện rồi”. Chúa Giêsu trả lời:” Anh Philípphê. Ai xem thấy Thầy là thấy Cha của Thầy”( Ga 14, 6-9 ).

Thánh Philípphê cũng được số đông lương dân xúm lại hỏi han Ngài, xin Ngài cho họ xem Đấng Cứu Thế. Sau khi Chúa về trời, được Chúa Thánh Thần tác động, đổi mới, thánh Philípphê đã rao giảng, loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô cho toàn thể dân thành Sitti . Rồi Thánh Nhân đến rao giảng cho dân Hiêrapoli, xứ Rigie và cũng như Thầy mình, Ngài được phúc tử đạo, bị đóng đinh vì danh Chúa Kitô. Xác thánh nhân được dân chúng mai táng ở Rigie, sau đó được cải táng về Roma, chôn cất cạnh thánh Giacôbê. Thánh Giacôbê hậu là anh em họ với Chúa Giêsu. Sở dĩ gọi Ngài là Giacôbê hậu để dễ phân biệt với thánh Giacôbê con ông Alphê. Thánh nhân trở thành giám mục tiên khởi cai quản thành Giêrusalem. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã hiện ra với Ngài và chính Ngài đã viết một bức thư còn lưu lại trong Tân Ước. Thánh nhân luôn trung thành với đức tin, bảo vệ Giáo Hội và vững tay chèo vững tay lái trên ngai giám mục. Vì ghen tương, đố kỵ, thánh nhân bị bọn biệt phái và một số người cứng lòng, ngạo mạn tố cáo và kết án. Thánh nhân bị bọn chúng bắt, đưa lên nóc nhà thờ, xô Ngài xuống đất và ném đá Ngài cho đến chết. Trước khi lià cõi đời, thánh nhân đã quì gối cầu nguyện, xin Chúa tha thứ cho những kẻ thù hãm hại mình

CHÚA TRAO MŨ TRIỀU THIÊN CHO CÁC NGÀI và GIÁO HỘI TÔN PHONG CÁC NGÀI

Như Thầy của mình, các môn đệ đã liều mình, hy sinh mạng sống của mình để làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh. Các Ngài nhất nhất chết cho tình yêu. Đúng như Chúa Giêsu đã nói:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ). Như Chúa Giêsu các Ngài đều nhất loạt cầu nguyện cho kẻ thù làm hại các Ngài:” Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”( Lc 23, 34 ). Các Ngài đã cảm nghiệm sâu sắc thế nào là tình yêu đến tự Thiên Chúa như Henri J.M Nouwen đã viết:” Khi tình yêu đến từ Thiên Chúa, thì tình yêu đó bền bỉ “. Lạy Chúa, hằng năm Chúa cho chúng con được hân hoan mừng lễ hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê. Xin Chúa thương nhận lời các Ngài cầu thay nguyện giúp mà cho chúng con biết thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu để được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa muôn đời( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Philípphê và Giacôbê, tông đồ )
 

langvuon

khoai nướng
Ðề: Lịch Phụng Vụ tháng 5/2011

Thứ Tư 04 Tr
Thứ Tư sau Chúa Nhật thứ II Mùa Phục Sinh
Cv 5: 17-26 Tv 34: 2-3, 4-5, 6-7, 8-9 Ga 3: 16-21

Thứ Năm 05 Tr
Thứ Năm Đầu Tháng. Cầu cho các linh mục
Cv 5: 27-33 Tv 34: 2, 9, 17-18, 19-20 Ga 3: 31-36

Thứ Sáu 06 Tr
Thứ Sáu Đầu Tháng. Đền tạ Trái Tim Chúa Giêsu, mis.imp
Thánh Đa Minh Savio
Cv 5: 34-42 Tv 27: 1, 4, 13-14 Ga 6: 1-15

Thứ Bảy 07 Tr
Thứ Bảy Đầu Tháng. Đền tạ Trái Tim Đức Mẹ, mis.imp
Cv 6: 1-7 Tv 33: 1-2, 4-5, 18-19 Ga 6: 16-21

Chúa Nhật 08 Tr
Chúa Nhật thứ III Mùa Phục Sinh
Cv 2: 14, 22-33 Tv 2: 14, 22-33 1Pr 1: 17-21 Lc 24: 13-35

Ngày 06 tháng 05
St. Dominic Savio
(1842-1857)

Nhiều người thánh thiện dường như lại chết yểu. Trong số đó có Thánh Đaminh Savio, quan thầy của các chú hội hát.

Sinh ngày 02 tháng 4 năm 1842 tại Riva di Chieri, Turin, nước Ý trong một gia đình nông dân, ngay từ khi lên bốn, mẹ ngài đã thấy cậu con trai bé nhỏ quỳ cầu nguyện trong một góc nhà. Lúc năm tuổi, ngài là chú giúp lễ. Khi lên bẩy, ngài được Rước Lễ Lần Đầu. Vào ngày trọng đại ấy, ngài đã chọn phương châm: "Thà chết chứ không phạm tội!" và ngài luôn luôn giữ điều ấy.

Quả thật, Đaminh là một cậu bé bình thường nhưng lòng yêu mến Thiên Chúa của cậu thật phi thường.Vào lúc 12 tuổi, Đaminh theo học trường của Thánh Don Bosco. Qua cách cầu nguyện của Đaminh, mọi người trong trường đều nhận thấy cậu thật khác biệt. Đaminh yêu quý tất cả mọi người, và dù trẻ hơn họ, cậu cũng lo lắng để ý đến họ. Cậu sợ rằng họ sẽ mất ơn sủng của Thiên Chúa vì tội lỗi.

Có lần, chúng bạn đưa cho cậu xem hình ảnh đồi trụy. Vừa thoáng nhìn thấy, cậu đã cầm lấy tờ báo xé tan ra từng mảnh và hỏi, "Thiên Chúa ban cho chúng ta cặp mắt để nhìn những điều xấu xa như vậy hay sao? Các anh không thấy xấu hổ à?"

Một lần khác, hai tên con trai giận dữ lấy đá ném nhau. Thấy thế, Đaminh đứng vào giữa, cầm tượng thánh giá nhỏ đưa lên cao, và nói, "Trước khi đánh nhau, mấy anh hãy nhìn vào thánh giá và nói, 'Đức Giêsu Kitô vô tội khi Ngài chịu chết đã tha thứ cho kẻ giết mình. Tôi là kẻ tội lỗi, và tôi sẽ làm đau khổ Ngài khi không tha thứ cho kẻ thù.' Rồi sau đó mấy anh hãy bắt đầu – và hãy ném đá tôi trước!"Hai anh kia cảm thấy xấu hổ, xin lỗi nhau và hứa sẽ đi xưng tội.

Sức khoẻ của Đaminh rất mỏng manh, thường hay đau yếu luôn và đưa đến biến chứng về phổi khiến cậu phải về nhà để tĩnh dưỡng. Tuy nhiên, khi ở nhà, bệnh tình lại càng gia tăng nên đã được chịu các Bí Tích sau cùng. Lúc ấy Đaminh mới 15 tuổi, nhưng cậu không sợ chết. Thật vậy, cậu vô cùng sung sướng khi nghĩ đến lúc được lên thiên đàng. Ngay trước khi chết, cậu cố gượng ngồi dậy. Cậu nói thầm vào tai cha mình, "Giã biệt bố." Rồi bỗng dưng mặt cậu tươi sáng với nụ cười rạng rỡ. Cậu kêu lên, "Con đang nhìn thấy những điều kỳ diệu!" và trút hơi thở cuối cùng. Đaminh Savio qua đời ngày 09 tháng 3 năm 1857 tại Mondonio, nước Ý. Chính Thánh Don Bosco là người viết lại tiểu sử của Đaminh Savio. Mộ phần Dominic Savio tại VCTĐ Đức Bà Phù Hộ Các Giáo Dân tại Turin không xa nơi an nghĩ của cha thánh Don Bosco.

Đức Giáo Hoàng Chân Phước Pius IX đã công nhận các nhân đức anh hùng và thánh thiện của Đấng Đáng Kính Đa Minh Savio ngày 11 tháng 7 năm 1933. Đức Giáo Hoàng Pius XII đã tôn phong Dominic Savio lên bậc Chân Phước ngày 05 tháng 3 năm 1950, rồi bốn năm sau chính ngài đã nâng Chân Phước Dominic Savio lên hàng hiển thánh ngày 12 tháng 6 năm 1954. Trong buổi lễ phong thánh, Đức Giáo Hoàng Pius XII đã nói, "Một thiếu niên như Đaminh, là người cố gắng giữ mình sạch tội từ khi rửa tội cho đến khi chết, quả thật là một vị thánh."
 

langvuon

khoai nướng
Ðề: Lịch Phụng Vụ tháng 5/2011

Thứ Hai 09 Tr
Thứ Hai sau Chúa Nhật thứ III Mùa Phục Sinh
Cv 6: 8-15 Tv 119: 23-24, 26-27, 29-30 Ga 6: 22-29
Kính thánh tử đạo Giuse Hiển, Lm

Thứ Ba 10 Tr
Thứ Ba sau Chúa Nhật thứ III Mùa Phục Sinh
Cv 7: 51; 8: 1 Tv 31: 3-4, 6-7, 8, 17, 21 Ga 6: 30-35

Thứ Tư 11 Tr
Thứ Tư sau Chúa Nhật thứ III Mùa Phục Sinh
Cv 8: 1-8 Tv 66: 1-3, 4-5, 6-7 Ga 6: 35-40
Kính thánh tử đạo Mátthêu Lê Văn Gẫm, Lái buôn

Thứ Năm 12 Tr
Thứ Năm sau Chúa Nhật thứ III Mùa Phục Sinh
Thánh Nereus và Achilleus, Pancras, Tđ
Cv 8: 26-40 Tv 66: 8-9, 16-17, 20 Ga 6: 44-51

Thứ Sáu 13 Tr
Thứ Sáu sau Chúa Nhật thứ III Mùa Phục Sinh
Cv 9: 1-20 Tv 117: 1, 2 Ga 6: 52-59

Thứ Bảy 14 Đ
Thứ Bảy sau Chúa Nhật thứ III Mùa Phục Sinh
Lễ kính Thánh Matthias , Tông Đồ
Cv 9: 31-42 Tv 116: 12-13, 14-15, 16-17 Ga 6: 60-69

Ngày 09 tháng 05
Thánh Giuse HIỂN
Linh mục dòng Đaminh (1769 - 1840)

Người tông đồ kính thánh giá

Ấn tượng đẹp nhất trong cuộc tử đạo của thánh Giuse Hiển là hình ảnh cụ già 71 tuổi, sau bao cực hình tra tấn ban ngày, mỗi tối nằm dài trong nhà lao nắn nót vẽ trên vải từng mẫu ảnh thánh giá mỹ thuật, với những nét hoa văn tinh tế, khi giáo hữu đến thăm cha phát cho mỗi người mỗi mẫu, khuyên họ cung kính suy ngẫm và xin ơn bền đỗ. Có người được ban ơn lạ vì mang trên mình hình ảnh thánh giá đó. Thế là trong tù cha vẫn phát động phong trào suy tôn thánh giá ở Nam Định. Về sau, vì số người đến xin ảnh nhiều quá cha phải nhờ một anh bạn tù khắc mẫu Thánh Giá đó vào gỗ rồi dùng mực in ra nhiều bản mới cung ứng đủ nhu cầu.

Giuse Hiển sinh năm 1796 tại làng Quần Anh Hạ. Tỉnh Nam Định. Từ thuở bé, gia đình đã gởi gấm cậu đến sống với Đức Cha Delgado Y dòng Đaminh. Sau khi học xong thần học, thày Hiển được thụ phong linh mục và được gởi đi du học ở Manila. Ngày 12-01-1812, cha được lãnh áo dòng Đaminh và năm sau vào khấn dòng. Trở về Việt Nam cha giúp nhiều giáo xứ, lâu nhất là xứ Cao Mộc. Mọi người công nhận cha sống thánh thiện, miệt mài với kinh nguyện và cha sống hoán cải lòng người. Ai nghe cha khuyên nhủ cũng thấy lòng mình sốt sắng muốn canh tân sửa đổi đời sống sao cho xứng danh kitô hữu.

Khi vua Minh Mạng ra lệnh cấm đạo, cha Hiển là bạn đồng hành với Giám Mục Henares Minh trên đường lưu lạc. Năm 1838, khi Đức Cha về Xương Điền, Ngài xin về quê cũ là Quần Anh, sau lại di chuyển qua Hưng Nghĩa rồi ở họ Trung Thành suốt 9 tháng. Tuy khó khăn và luôn luôn trốn, cha vẫn cố tìm cách phục vụ cộng đồng dân Chúa cách đắc lực, cha thăm viếng từng nhà, an ủi từng người và trao ban bí tích.

Vững vàng trong thử thách.

Tối 20.12.1839, cha Hiển đi xức dầu và giải tội cho ông Đội Nhật đang hấp hối, ông đã bỏ xưng tội lâu năm và muốn được giọn mình chết lành. Một người ngoại giáo phát giác và tố cáo với Tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Quan liền đem quân đến vây kín làng Trung Thành. Thấy khó trốn thoát, cha cử hành một thánh lễ sốt sắng để chuẩn bị lãnh phúc tử đạo. Đến khi trời vừa tảng sáng, quân lính tìm bắt được cha và lôi ra trước đình làng.

Vì chối không chịu đạp lên Thánh Giá, quan cho đánh cha 40 roi, tiết đông giá rét góp phần làm những vết roi thêm tê buốt. Sau đó, quan truyền lấy nước lạnh dội từ trên đầu xuống, các vết thương đang rướm máu nay gặp nước thì tím bầm lại, quả đau đớn và xót xa ! Dầu vậy, cha Hiển vẫn không hề than thở rên la một lời, cha chỉ kêu tên cực trọng Đức Giêsu và suy niệm về cuộc thương khó Chúa khi xưa.

Hai ngày sau, vị linh mục được giải về Nam Định và bị giam giữ hơn năm tháng. Là một tu sĩ dòng thuyết giáo, cha không quên sứ mạng truyền bá Tin Mừng. Ngay ở trong tù, cha vẫn dạy đạo và rửa tội ch một vài tân tòng, khuyến khích các tín hữu kiên trung xưng đạo ngay trước những cực hình tra tấn. Đặc biệt cha giúp thày Tôma Toán đã một lần đạp lên Thánh Giá, tìm lại được can đảm tuyên xưng niềm tin cho đến ngày lãnh triều thiên tử đạo. Những mẫu ảnh Thánh Giá cha phổ biến, đã gây được một phong trào tôn sùng Thánh Giá, giúp người nhút nhát thêm nghị lực, giúp tội nhân hoán cải, và nhiều người sắp chết tìm lại được an bình.

Rất nhiều lần cha bị đưa ra đối chất trước tòa. Các quan khi thì tra tấn dã man, khi thì dùng lời dụ dỗ ngọt ngào, nhưng trước sau như một, cha dứt khoát không chịu xuất giáo. Cha nói: “Tôi đã già chẳng sông được bao lâu nữa, tôi sẵn sàng chết vì Đấng đã chết cho tôi”.

Đầu tháng 05.1840, sau khi đã nhận án từ triều đình quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh truyền đem cha Hiển cùng thày Toán ra trình diện. Quan bắt hai vị đứng trước Thánh Giá rồi cho quản tượng dẫn ra hai thớt voi to lớn đứng ngay sau lưng. Theo lệnh của quan tượng, hai chú voi từ từ tiến tới đẩy hai vị đạp lên Thánh Giá. Nhưng hai vị đã khéo léo và bình tĩnh tránh ra một bên. Cha Hiển nói thẳng với quan: “Xin quan cứ tuân lệnh vua, đừng ép thêm vô ích, chúng tôi sẵn sàng chết để tỏ lòng yêu mến Chúa”. Trịnh Quang Khanh nghe nói thế tức giận lắm, truyền giam thày Toán vào ngục, bỏ đói cho chết rũ tù. Còn cha Hiển, ông cho đem đi xử trảm ngay.

Khải hoàn trong vinh quang.

Trên đường ra pháp trường, cha Giuse Hiển phải mang gông rất nặng đi giữa một toán lính, cha quì gối thinh lặng, mắt hướng về trời cao. Trong lúc chìm đắm trong lời nguyện, cha lãnh nhận một nhát gươm đem lại ngành lá chiến thắng tử đạo mà cha hằng mong ước. Hôm ấy là ngày 09.05.1840. Thi thể cha Hiển được chôn ngay tại pháp trường. Tám tháng sau, anh Phêrô Dậu, người trước cùng bị giam chung với cha vì đức tin, cải táng và đem về chôn tại chủng viện Lục Thủy.

Đức Lêo XIII suy tôn Chân Phước cho cha Giuse Hiển, linh mục dòng Thuyết giáo, cùng với 63 vị tử đạo tại Việt Nam khác ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh
Ngày 11 tháng 05
Thánh Matthêu LÊ VĂN GẪM
Thương Gia - (1813 – 1847)

Liều thân vì đại nghĩa

Năm 1844, theo lời yêu cầu của Đức cha Cuénot Thể, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XVI chia giáo phận Đàng Trong thành hai giáo phận : Giáo phận Đông gồm các tỉnh miền Trung, và giáo phận Tây gồm các tỉnh Miền Nam và Campuchia. Giáo phận tây được giao cho Đức cha Lefèbvre Nghĩa, khi đó đã bị trục xuất và đang ở Singapour. Phải đưa Đức cha về giáo phận, đó là điều mong ước của toàn thể tín hữu và hàng giáo sĩ ở Nam Việt. Thánh Matthêu Gẫm đã đứng ra đảm nhiệm công tác này, dù đã lường trước được những nguy hiểm đến tính mạng. Và thực tế, ngài đã bị bắt và đã hy sinh vì sứ mạng này. Tấm gương sáng ngời của thánh nhân sẽ muôn đời sống mãi trong lòng các tín hữu Việt Nam yêu mến Giáo Hội mình.

Người gia trưởng gương mẫu

Matthêu Lê Văn Gẫm chào đời năm 1813 thời vua Gia Long, tại họ Tắt, thuộc làng Long Đại, xứ Gò Công, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc quận 9, TPHCM). Là con đầu lòng trong một gia đình năm anh em trai và một em gái út, Matthêu Gẫm đã thừa hưởng nơi thân phụ, ông Phaolô Lê Văn Lại và thân mẫu, bà Maria Nguyễn Thị Nhiệm, một truyền thống đạo đức thâm sâu.

Năm 15 tuổi, cậu Gẫm xin phép cha mẹ gia nhập chủng viện Lái Thiêu để tu học linh mục. Nhưng chỉ một tháng sau, song thân đã đến xin cậu về. Vì là anh cả một đàn em nhỏ dại, cậu đã vâng lời cha mẹ về phụ giúp gia đình lao động kiếm sống. Và Chúa đã hướng dẫn cậu theo lối khác. Khoảng 20 tuổi, chàng thanh niên vạm vỡ ấy kết hôn với một thiếu nữ thuộc họ Thành, làng Long Điền, Bà Rịa (Nay thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai). Hai vợ chồng sống với nhau rất êm ấm thuận hòa và sinh dạ được bốn người con.

Trong nghề thương mại thường phải xa nhà, một lần kia Matthêu Gẫm sa ngã, theo đuổi mọt thiếu nữ khác. Nhưng khi nghĩ lại, ông cương quyết từ bỏ mối tình ngang trái. Để bù lại, ông tỏ ra yêu vợ nhiều hơn, và chú tâm vào việc giáo dục con cái, nhất là về đời sống đạo đức. Trong bốn người con thì con trưởng và con út qua đời vì bệnh, người thứ hai ra cản việc đốt nhà thờ Cầu Ngang nên bị giết, còn người thứ ba bị bắt vì đạo và chết thiêu trong khám đường cùng với nhiều người khác tại Bà Rịa ngày 07.01.1862. Hai người con sẵn sàng chết vì đức tin, quả là bằng chứng rõ rệt về đường lối giáo dục đức tin của ông.

Người thương gia quảng đại

Vì có thuyền riêng và rành nghề sông biển, công việc buôn bán của ông Matthêu Gẫm càng ngày càng phát đạt. Ông quảng đại giúp đỡ các giáo sĩ, và được các thừa sai tín nhiệm. Trong chương trình của cha Lợi, quản lý nhà chung Bà Rịa thì thỉnh thoảng ông lại làm một chuyến qua Hạ Châu (Singgapour) hay Pénang (Mã Lai) để đón các thừa sai và các chửng sinh Việt Nam du học về nước, hoăc chuyển các đồ thờ tự và sách báo đạo. Một số chuyến đi về êm xuôi, nhưng rồi công việc bại lộ, và các quan địa phương để ý theo dõi ông rất gắt.

Năm 1846, vì nhu cầu của giáo phận, ông nhận lời với cha Lợi sang Singapour đón Đức cha Đaminh Lefèbvre Nghĩa, cha Duclos Lộ và ba chủng sinh về Sài Gòn. Như có linh cảm chuyến này khó thoát, nên ông đến từ giã cha mẹ nội ngoại, dặn dò vợ con kỹ càng ước vọng của mình rồi lên đường. Chuyến đi được êm xuôi. Ngày 23.05, thuyền nhổ neo quay về thì gặp bão tố, và mất thêm bốn ngày trốn chạy một tàu cướp biển, nên ông chễ hẹn. Ngày 06.06, ông Gẫm mới vào đến cửa Cần Giờ, ông trùm Huy họ Chợ Quán đã chờ ở đó sáu ngày để chuyển người mà không gặp, nên đã chở về nhà.

Vì biết mình là đối tượng bị theo dõi, ông Gẫm đã cẩn thận neo thuyền chờ thêm hai ngày, đến khi không thấy ai ra đón, mới quyết định đánh liều đi sâu vào Sài Gòn. Vừa thoát qua một đồn canh, ông gặp một chiếc thuyền tuần tiễu, ông nhanh trí hối lộ cho họ 10 nén bạc để thoát thân. Năm người lính trên thuyền này, sau một hồi tranh luận, sợ chuyện bị bại lộ, nên quay thuyền lại và rượt theo để trả tiền rồi bắt thuyền ông. Ông Gẫm kêu gọi các anh em trên thuyền hợp lực, định chống trả, nhưng Đức cha Nghĩa không đồng ý, vì cho rằng trái với tinh thân nhân hậu của Kitô giáo.

Khổ giá và vinh quang

Sáng ngày 08.06.1846, với sự yểm trợ của một số lính trên thuyền khác mới tới, quan lính nhà vua áp tải thuyền ông Gẫm về Bến Nghé. Đức cha Nghĩa và cha Lộ bị giam ở Công Quán. Cha Lộ qua đời trong tù ngày 17.07.1846, còn vị Giám mục thì được giải ra kinh đô Phú Xuân. Tại đây vua Thiệu Trị lên án xử trảm, sau đổi thành án trục xuất về Singapour, sau ngài lại tìm cách vào Việt Nam. Ông Matthêu Gẫm tự nhận là người chủ mưu nên bị biệt giam ở Sài Gòn.

Vài ngày sau, các quan đưa ông ra tòa lấy khẩu cung và kêu gọi quá khóa. Dù bị đòn đánh đau đớn, ông Gẫm vẫn hiên ngang chịu đựng, không khai một ai, cũng không chịu bước qua Thánh Giá. Trước tòa, ông khai tên là Lê Văn Bửu, còn bản án lại ghi tên Lê Văn Bối. Sau 20 ngày, các quan làm án gửi về kinh đô xin xử chém, nhưng nhà vua chần chừ đến năm sau mới quyết định.

Trong thời gian chờ vua phê án, ông Gẫm phải mang gông xiềng nặng nề, nhưng lúc nào cũng giữ được bình tĩnh vui vẻ. Ông nói : "Tôi có ăn trộm ăn cướp gì đâu mà sợ, mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm". Cha Thán ba lần cải trang vào thăm giải tội và trao Mình Thánh. Cha Phan Văn Minh (tử đạo ngày 03.07.1853) cũng vào thăm và khích lệ. Các tín hữu Chợ Quán, Thị Nghè, An Nhơn và họ Lăng (Chí Hòa) cũng rủ nhau đến thăm viếng người anh hùng của giáo phận. Thân phụ ông Gẫm và người em, ông đội Phaolô Bằng, vì liên hệ gia đình cũng bị bắt giam tại Biên Hòa. Thân mẫu ông và các em khác trốn tránh quanh vùng Thủ Đức cũng vào ngục thăm ông một vài lần.

Sau bảy tháng ông Gẫm bị giam, bản án được vua Thiệu Trị châu phê, nhưng vì trùng vào dịp cuối năm, vua ra lệnh dời qua tết mới thi hành. Sau tết, một vài viên quan ở trấn Gia Định có cảm tình với người thương gia hiền lành, viện cớ chính vị giám mục cũng không bị xử tử, làm đơn xin vua giảm án của ông Gẫm thành án lưu đày chung thân. Nhưng tháng 03.1847, khi quân đội triều đình giao tranh và thua quân Pháp ở Đà Nẵng, nhà vua quyết định không ân xá gì nữa.

Ngày 11.05.1847, ông Lê Văn Gẫm được đưa đến pháp trường "Da Còm", tên một cây đa tróc gốc cằn cỗi ở đó (nay là xứ Chợ Đũi, khi đó còn thuộc xứ Chợ Quán), các vị tín hữu và lương dân hiện diện rất đông. Ba người em của vị anh hùng đức tin, là Tôma Trọng, Phaolô Bằng và Anrê Nguyện, cũng có mặt trong cuộc xử anh mình. Ông đội Bằng và ông Trùm Phước phải xô đẩy đám đông để đưa cha Thán đến gần giải tội lần cuối cùng cho anh mình. Ông đội cũng tặng đao phủ ba quan tiền đề anh ta chém thật gọn, giúp anh mình đỡ đau đớn.

Thế nhưng nghe tiếng chiêng trống, và thấy thái độ thương tiếc của nhiều người tham dự, viên đao phủ không giữ được bình tĩnh phải chém đến ba nhát, đầu vị tử đạo đạo mới lìa khỏi cổ. Các người en vị tử đạo và các tín hữu ùa vào, ráp đầu vị chứng nhân với thân mình, khâu lại, thay áo trắng, lấy khăn xanh quấn quanh cổ ngài, rồi đặt lên võng khiêng về an táng tại họ Chợ Quán.

Năm 1870, bà nhiệm, thân mẫu vị tử đạo thuật lại ở tòa điều tra phong thánh rằng : "Hai vợ chồng chúng tôi nghe con chết thì chẳng còn thảm thiết gì, một vui lòng mà rằng : chết vậy đặng làm thánh".
Ngày 27.05.1900, Đức Lêo XIII suy tôn ông Matthêu Lê Văn Gẫm lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.


Ngày 12 tháng 05
Thánh Nereus và Thánh Achilleus
(thế kỷ I)

Những gì chúng ta biết về hai vị tử đạo của thế kỷ thứ nhất là từ các lời chứng của Thánh Giáo Hoàng Damasus trong thế kỷ thứ tư, và được ghi khắc trên tấm bia để tưởng nhớ hai ngài. Nhưng điều dẫn giải này chỉ xảy ra sau cái chết của các ngài đến 300 năm.

Ðức Damasus kể rằng Nereus và Achilleus là binh lính của đạo quân Rôma và nhiệm vụ của họ là bách hại người Kitô Giáo. Có lẽ hai ngài chẳng có gì chống đối đạo và cũng không muốn đổ máu người vô tội, nhưng họ tuân lệnh chỉ vì sợ chết. Nói cho cùng, đó là nhiệm vụ của một người lính.

Chúng ta không rõ hai ngài đã trở lại đạo như thế nào, chỉ biết đó là một "phép lạ đức tin." Sau phép lạ này, hai ngài quăng vũ khí và trốn ra khỏi trại, vứt bỏ áo giáp và gươm đao để mặc lấy đời sống mới trong Ðức Kitô. Vì đã từng là những kẻ bách hại, có lẽ các ngài biết rõ hơn ai hết về sự đau khổ đang chờ đợi người Kitô. Tuy nhiên, đức tin đã chiến thắng sự sợ hãi cái chết, và sự chiến thắng của đức tin là sự ngọt ngào nhất mà các ngài chưa bao giờ được cảm nghiệm.

Chúng ta biết là các ngài đã tử đạo, nhưng Ðức Damasus không cho biết chi tiết như thế nào. Sau này, truyền thuyết nói rằng các ngài phục vụ dưới quyền bà Flavia Domitilla, là cháu gái của Hoàng Ðế Domitian, và đã bị lưu đầy và bị hành quyết cùng với bà khi chính bà này trở lại đạo. Truyền thuyết này có lẽ phát xuất từ sự kiện là hai ngài đã được chôn cất trong một hầm mộ được gọi là nghĩa trang Domitilla.

Lời Bàn

Như trong trường hợp của các vị tử đạo tiên khởi, Giáo Hội chỉ biết bám víu vào chút ký ức sơ sài giữa những dữ kiện mù mờ của lịch sử. Nhưng đó là một khích lệ lớn lao cho tất cả Kitô Hữu khi biết rằng chúng ta có một di sản quý báu. Những anh chị của chúng ta trong Ðức Kitô cũng đã sống ở một thế giới giống như chúng ta -- chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa vật chất, hung bạo và hoài nghi - tuy nhiên các ngài đã biến đổi tâm hồn nhờ sự hiện diện của Ðấng Hằng Sống. Sự can đảm của chúng ta cũng được phấn khích bởi các anh hùng liệt nữ, là những người đã ra đi trước chúng ta và đã được ghi dấu đức tin nhờ mang lấy thương tích của Ðức Kitô.


Ngày 12 tháng 05
Thánh Pancras

Chúng ta cần biết về một vị thánh tử đạo còn rất trẻ: Thánh Pancras. Ngài chết vào lúc mới 14 tuổi trong năm 304. Pancras là một thiếu niên rất đẹp trai và khỏe mạnh, luôn thắng các thiếu niên khác trong những trận đô vật. Một hôm Pancras thắng một thiếu niên ngoại đạo, người này rất tự phụ tự đắc. Để trả thù, hắn đi tố với hoàng đế rằng Pancras là người Công giáo. Thời đó, đạo Công giáo bị luật Rôma cấm đoàn.
Hoàng đế là bạn thân của cha Pancras (người cha này đã qua đời), nên muốn tha cho Pancras. Ông cố gắng làm mọi cách cho Pancras thay đổi ý . Hoàng đế nói: Con chỉ cần dâng vài lời cầu nguyện với các thần của ta, và ta sẽ ban cho quyền bính trong đế quốc ta. Tuy Pancras sợ chết lắm, nhưng em không thể chối Chúa Giêsu. Pancras đáp lại: Nhờ phép rửa tội, tôi đã nên con Thiên Chúa. Tôi không bao giờ từ chối Chúa Giêsu, cho dù có được cả một đế quốc.

Thế là Pancras đã bị xử tử hình. Em đã tỏ ra can đảm biết bao khi bị điệu qua các đường phố như một một tên trọng tội. Em đã không hề kêu la khi quân lính đánh đòn, và không hề đổi ý khi nghe dân chúng chế nhạo. Trái lại, Pancras đã nghĩ đến Chúa Giêsu đang bị điệu qua các ngả đường Giêrusalem đến nơi Ngài bị đóng đinh. Trước khi Pancras bị một lưõi gươm chém đầu, em đọc lời kinh này chứng tỏ sự bình an trong tâm hồn và sức mạnh em có:

Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa về đau lhổ con sắp lãnh nhận. Con chấp nhận đau khổ này với lòng hân hoan, vì biết rằng cái chết của con sẽ đưa con về Thiên Đàng để ở với Chúa mãi mãi. Lạy Chúa Giêsu, xin cứ những kẻ sắp giết con!


Ngày 14 tháng 05
THÁNH MATTHIAS, (St. Matthias)

Chúa nói:” Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn
anh em để anh em ra đi, thu được kết quả và kết quả của anh em được lâu bền”( Ga 15, 16 ). Thánh Matthias là một trong trường hợp được chính cộng đoàn do Chúa Thánh Thần tác động đã chọn Ngài thế chỗ Giuđa Iscariôt kẻ phản bội Chúa Giêsu

CHÚA TUYỂN CHỌN MATTHIAS

Đọc công vụ tông đồ 1, 15-17. 20-26, ta sẽ nhận ra sự chọn lựa vô cùng quan trọng người thế chân Giuđa sau khi Chúa phục sinh về trời. Bài diễn từ của thánh Phêrô nêu lên những điểm nổi bật để tuyển chọn một người vào số 11 tông đồ . Sau khi giới thiệu hai người Giuse, tức Barsabba, biệt danh là công chính, và ông Matthias. Phêrô và mọi người có mặt cầu nguyện:” Lạy Chúa, Chúa thấu suốt tâm hồn mọi người, xin hãy tỏ ra Chúa chọn ai trong hai người này để nhận chức vụ và tước hiệu tông đồ thay cho Giuđa, kẻ đã hư hỏng mà đi đến nơi của nó”( Cv 1, 25 ) và họ rút thăm, thăm trúng ông Matthias: ông được kể thêm vào số mười một tông đồ”( Cv 1, 26 ). Nhóm 12 là con số đã được mạc khải. Dân Israen mới được xây dựng trên nền tảng của 12 tông đồ. Xưa dân Israen được xây dựng trên 12 chi tộc của Giacóp. Thánh Matthias đã được tuyển chọn vào số 12 vì ông đủ tiêu chuẩn do Phêrô, thủ lãnh các tông đồ đề ra : đã theo Chúa Giêsu, từ khi Ngài chịu phép rửa ở sông Giorđan đến khi Chúa về trời để có thể làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Giêsu. Môn đệ phải sống với Chúa, nghe Chúa giảng dậy, chứng kiến các phép lạ của Chúa, sống thân tình với Chúa và phải ăn uống với Chúa sau khi Chúa sống lại, nhờ đó, họ mới có thể mạnh dạn, can đảm làm chứng cho Chúa phục sinh dẫu có phải hy sinh cả tính mạng để minh chứng cho Thầy chí thánh. Thánh Matthias đã được tuyển chọn thế chân Giuđa và Ngài đã hoàn thành xuất sắc nhất sứ mạng Chúa trao phó cho Ngài.


LỜI NGUYỆN CẦU

“Lạy Chúa, Chúa đã chọn thánh Matthias để bổ sung nhóm mười hai tông đồ. Cúi xin Chúa nhận lời Người cầu thay nguyện giúp cho chúng con, nay đang vui hưởng tình yêu của Chúa, mai sau cũng được kể vào số những người Chúa chọn”. ( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Matthias, tông đồ ).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
 

langvuon

khoai nướng
Ðề: Lịch Phụng Vụ tháng 5/2011

Chúa Nhật 15 Tr
Chúa Nhật thứ IV Mùa Phục Sinh
Thánh Isidore, Nông dân
Cv 2: 14, 36-41 Tv 23: 1-3, 34, 5, 6 1Pr 2: 20-25 Ga 10: 1-10

Thứ Hai 16 Tr
Thứ Hai sau Chúa Nhật thứ IV Mùa Phục Sinh
Cv 11: 19-26 Tv 87: 1-3, 4-5, 6-7 Ga 87: 1-3, 4-5, 6-7

Thứ Ba 17 Tr
Thứ Ba sau Chúa Nhật thứ IV Mùa Phục Sinh
Cv 11: 19-26 Tv 87: 1-3, 4-5, 6-7 Ga 10: 22-30

Thứ Tư 18 Tr
Thứ Tư sau Chúa Nhật thứ IV Mùa Phục Sinh
Thánh Gioan I, Ghtđ
Cv 12: 24; 13: 5 Tv 67: 2-3, 5, 6, 8 Ga 12: 44-50

Thứ Năm 19 Tr
Thứ Năm sau Chúa Nhật thứ IV Mùa Phục Sinh
Cv 13: 13-25 Tv 89: 2-3, 21-22, 25, 27 Ga 13: 16-20

Thứ Sáu 20 Tr
Thứ Sáu sau Chúa Nhật thứ IV Mùa Phục Sinh
Thánh Bernardine đệ Siena, Lm
Cv 13: 26-33 Tv 2: 6-7, 8-9, 10-11 Ga 14: 1-6

Thứ Bảy 21 Tr
Thứ Bảy sau Chúa Nhật thứ IV Mùa Phục Sinh
Cv 13: 44-52 Tv 98: 1, 2-3, 3-4 Ga 14: 7-14

Ngày 15 tháng 05
Thánh Isidore ở Seville
(560? - 636)

Trong 76 năm cuộc đời của Thánh Isidore là thời kỳ tranh chấp cũng như phát triển của Giáo Hội Tây Ban Nha. Người Visigoth xâm lăng phần đất này trong một thế kỷ, và trước đó nửa thế kỷ trước khi Thánh Isidore chào đời thì họ đã thiết lập một thủ đô khác cho chính họ. Ðó là những người theo Arian -- họ cho rằng Ðức Kitô không phải là Thiên Chúa. Do đó, Tây Ban Nha bị chia làm đôi: Một dân tộc (người Công Giáo La Mã) phải chiến đấu với dân tộc khác (người Gô-tích Arian).

Thánh Isidore là người hợp nhất Tây Ban Nha, giúp quốc gia này trở nên một trung tâm văn hóa và học thuật cũng như một khuôn mẫu cho các quốc gia Âu Châu khác, mà các nền văn hóa ấy đang bị đe dọa bởi sự xâm lăng của những người man rợ.

Có thể nói Thánh Isidore sinh trong một gia đình thánh thiện của thế kỷ thứ sáu ở Tây Ban Nha. Hai người anh của ngài, Leander và Fulgentius, và người chị, Florentina, đều là các thánh được sùng kính ở Tây Ban Nha. Ðây cũng là một gia đình lãnh đạo và tài giỏi với các vị Leander và Fulgentius đều làm giám mục và Florentina làm mẹ bề trên.

Là một người tài giỏi về học thuật, đôi khi Thánh Isidore được gọi là "Sư Phụ của Thời Trung Cổ" vì cuốn bách khoa ngài viết, "Etymology" (Từ Nguyên Học) đã được dùng như sách giáo khoa trong chín thế kỷ. Ngài còn viết các sách về văn phạm, thiên văn, địa lý, sử ký, và tiểu sử cũng như thần học.

Kế vị anh mình là Ðức Leander, Isidore làm giám mục Seville trong 37 năm, ngài đặt ra các mẫu mực cho một đại diện chính phủ ở Âu Châu, đồng thời ngài tẩy chay các quyết định độc đoán và thành lập các thượng hội đồng để thảo luận về đường hướng của Giáo Hội Tây Ban Nha. Ngài yêu cầu mỗi một giáo phận đều phải có chủng viện, ngài viết quy luật cho các dòng tu và thành lập các môn học thuộc đủ mọi ngành. Thánh Isidore viết rất nhiều sách, kể cả một cuốn tự điển, một bộ bách khoa, một cuốn sử người Gô-tích và một cuốn sử thế giới bắt đầu từ khi Thiên Chúa tạo thành trời đất! Ngài hoàn thành bộ phụng tự Mozarabic mà ngày nay vẫn còn được sử dụng ở Toledo, Tây Ban Nha.

Ngay khi 80 tuổi, ngài vẫn sống khắc khổ. Trong sáu tháng sau cùng của cuộc đời, ngài gia tăng lòng bác ái đến độ, từ sáng đến tối, nhà của ngài lúc nào cũng đầy người nghèo. Ngài từ trần năm 636 và được Giáo Hội tuyên xưng là Tiến Sĩ Hội Thánh.

Lời Bàn

Mọi người chúng ta phải bắt chước Thánh Isidore về học thức và sự thánh thiện. Lòng bác ái, sự hiểu biết có thể chữa lành và hòa giải những người đau khổ. Chúng ta không phải là những người man rợ như đã xâm lăng Tây Ban Nha thời Thánh Isidore. Nhưng những người sa lầy trong sự giầu sang và choáng ngợp bởi các tiến bộ khoa học và kỹ thuật có thể mất đi lòng bác ái đối với tha nhân.

Ngày 18 tháng 05
Thánh Giáo Hoàng Gioan I
(c. 526)

Thánh Giáo Hoàng Gioan I, người xứ Tuscan, là tổng-phó-tế của hàng giáo sĩ Rôma, được chọn để kế vị Ðức Hormisdas mà lúc bấy giờ đã già yếu. Bất kể sự phản đối, ngài bị Theodoric -- là vua của Ý, người hăng hái bảo vệ phe lạc giáo Arian -- sai đi Constantinople để thuyết phục Hoàng Ðế Justin bớt khắt khe trong việc chống đối phe Arian mà một sắc lệnh của vua buộc phe này phải trao trả các nhà thờ cho người Công Giáo ở Ðông Phương. Theodoric đe dọa rằng nếu Ðức Gioan thất bại trong nhiệm vụ, thì người Công Giáo chính thống ở Tây Phương sẽ bị trả đũa.

Nhiệm vụ thật khó khăn nhưng chuyến đi thật vinh quang. Bất cứ đâu ngài đến đều được dân chúng vui mừng tiếp đón. Khi đến Constantinople, Hoàng Ðế Justin đã dành mọi vinh dự cho ngài. Vào Chúa Nhật Phục Sinh, 19-4-526, ngài đội vương miện tấn phong cho Hoàng Ðế Justin. Ngoài ra, các giám mục Ðông Phương cũng hăng say thề trung thành với Rôma.

Khi Ðức Gioan trở về Ravenna, thủ phủ của Theodoric, ngài khám phá rằng Theodoric đã giết chết người bạn tâm giao của ngài là triết gia vĩ đại Severinus Boethius, cũng như bố vợ của ông là Symmachus. Về phần Theodoric, vì nghi ngờ Ðức Gioan thông đồng với Hoàng Ðế Justin nên ngay khi ngài đặt chân lên đất Ý, Theodoric đã cho người bắt giam ngay lập tức.

Phần vì mệt mỏi sau cuộc hành trình, cộng thêm sự đau khổ vì đối xử tệ hại, ngài ở tù không lâu và đã từ trần ngày 18 tháng Năm 526. Ngài được chôn cất ở bên ngoài thành Ravenna, nhưng sau đó thi hài của ngài được đưa về Rôma và chôn cất trong Ðền Thánh Phêrô.

Lời Bàn

Chúng ta không thể chọn lựa những đau khổ mà chúng ta phải chịu. Thánh Giáo Hoàng Gioan I bị đau khổ vì một hoàng đế tham quyền. Ðức Giêsu đau khổ vì những nghi ngờ của những người cảm thấy bị đe dọa vì chân lý, vì sự thẳng thắn và vì sự bất lực của Ðức Giêsu. "Nếu thế gian ghét bỏ anh em, hãy biết rằng thế gian đã ghét bỏ Thầy trước.".

Ngày 20 tháng 05
THÁNH BERNAĐINÔ thành Siêna,
Linh mục

Ca nhập lễ, lễ các thánh truyền giáo có viết:” Đây là những thánh nhân được Thiên Chúa nâng lên bậc tâm phúc.Các Ngài được vinh hiển, nhờ rao giảng chân lý của Người”.Thánh Bernađinô Siêna đã sống đời tận hiến tuyệt vời và đã chu toàn sứ mạng Thiên Chúa trao phó một cách anh dũng.

ĐỜI SỐNG CỦA THÁNH BERNAĐINÔ SIÊNA:

Thánh Bernađinô Siêna sinh ngày 7 tháng 9 năm 1380.Ngài mồ côi mẹ lúc lên ba tuổi và mồ côi cha lúc sáu tuổi đời. Thánh nhân đã sống tuổi nhỏ, tuổi ấu thơ nhờ bà dì ruột có lòng đạo đức, thương người. Ngài được bà dì nuôi nấng, dậy dỗ, săn sóc chu đáo. Thánh nhân đã được Chúa ban cho một tấm lòng giầu tình thương, một đức ái tuyệt diệu,một con tim mở rộng và đầy nhân ái.Thánh nhân có lòng yêu thương, giúp đỡ người nghèo.Ngài tự nguyện phục vụ các bệnh nhân tại bệnh viện Đức Bà Scala ở Siêna.Với tinh thần xả kỷ,lòng thương xót vô bờ, thánh nhân đã đem lại cho nhiều người đau ốm, bệnh hoạn được niềm an ủi, vỗ về. Với một tấm lòng hy sinh, đại độ, một con tim quảng đại, thánh nhân đã được Chúa tuyển chọn.

NHẬN RA TIẾNG CHÚA:

Ngày 8 tháng 9 năm 1402, thánh nhân đã nhận ra tiếng Chúa, Ngài mạnh dạn, can đảm bán tất cả của cải mình có, phân chia cho người nghèo và xin gia nhập dòng anh em hèn mọn Phanxicô. Với một tấm lòng thiết tha dâng hiến cho Chúa, thánh nhân đã được Chúa cho hạnh phúc:” Ta sẽ chăn dắt đoàn chiên của Ta và cho chúng nằm nghỉ”( Ed 34, 15 ).Thánh nhân đã được lãnh nhận sứ vụ linh mục sau đó và được các bề trên sai đi rao giảng, loan báo Tin Mừng.Thánh nhân hiểu sức của mình và khả năng có hạn, nhưng Ngài luôn đặt tin tưởng, phó thác vào Chúa và Ngài đã lướt thắng tất cả, lướt thắng bản thân, lướt thắng khó khăn, để chỉ một lòng phục vụ nước Chúa và tha nhân.Với lòng nhiệt thành,lời rao giảng đầy lửa Thánh Thần,Ngài đã rảo qua nhiều tỉnh, nhiều miền và thu hút biết bao người trở về với Chúa.Thánh nhân đã khôi phục được đời sống đạo đức và thuần phong mỹ tục đang trên đà xuống dốc. Thánh nhân luôn hăng say, nhiệt thành với sứ mạng Giáo Hội và nhà Dòng trao phó cho tới khi Ngài bị ngã bệnh nặng.Năm 1444, thánh nhân trước khi nhắm mắt, ra đi, trở về với Chúa, đã xin lãnh nhậncác bí tích cuối cùng và trút hơi thở êm ái, thanh thản tại Aquila, hưởng thọ 66 tuổi,đúng vào ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.

LỜI CẦU NGUYỆN:

“Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh Bernađinô linh mục, lòng nhiệt thành yêu mến danh thánh Chúa Giêsu.Vì công nghiệp và lời chuyển cầu của thánh nhân, xin đem lửa tình yêu của Chúa đốt cháy tâm hồn chúng con luôn mãi”.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
 

langvuon

khoai nướng
Ðề: Lịch Phụng Vụ tháng 5/2011

Chúa Nhật 22 Tr
Chúa Nhật thứ V Mùa Phục Sinh

Cv 6: 1-7 Tv 33: 1-2, 4-5, 18-19 1Pr 2: 4-9 Ga 14: 1-12
Kính thánh tử đạo Micae Hồ Đình Hy, Quan Thái Bộc, Laurensô Ngôn, Giáo dân

Thứ Hai 23 Tr
Thứ Hai sau Chúa Nhật thứ V Mùa Phục Sinh
Cv 14: 5-18 Tv 115: 1-2, 3-4, 15-16 Ga 14: 21-26

Thứ Ba 24 Tr
Thứ Ba sau Chúa Nhật thứ V Mùa Phục Sinh
Cv 14: 19-28 Tv 145: 10-11, 12-13, 21 Ga 14: 27-31

Thứ Tư 25 Tr
Thứ Tư sau Chúa Nhật thứ V Mùa Phục Sinh
Thánh Venerable Bede, Lmts, Grêgôriô VII, Gh, Maria Mađalêna de Pazzi, Đt
Cv 15: 1-6 Tv 122: 1-2, 3-4, 4-5 Ga 15: 1-8
Kính thánh tử đạo Phêrô Đoàn Văn Vân, Thày giảng

Ngày 22 tháng 05
Thánh Micae HỒ ĐÌNH HY
Quan Thái bộc - (1808 - 1857)


Bức chân dung sống động.

Đứng trước bức tranh "NÀY LÀ NGƯỜI" (Ecce Homo), diễn tả Đức Giêsu sau cuộc tra tấn được Philatô đem trình diện dân chúng (Ga 19, 5), Thánh nữ Têrêsa thành Avila thuật lại như sau: "Bức tranh sống động trình bày Đức Giêsu mình đầy thương tích đó đã khiến tôi xúc động ngay khi vừa trông thấy. Tôi thấy mình run lên, vì cảm nhận được những đau khổ Chúa chịu vỉ chúng ta. Tim tôi như rạn nứt vì hối hận những bất trung của tôi đã đả thương ngài. Tôi liền quỳ xuống trước mặt Ngài, nước mắt đần đìa, xin Ngài ban chio tôi sức mạnh một lần cho trọn đời, để từ nay không bao giờ tôi làm phiền lòng Ngài nữa."

Trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam, bức tranh "NÀY LÀ NGƯỜI" đã được phác họa không phải trên vải, mà là nơi chân dung Quan Thái bộc Hồ Đình Hy mình đầy thương tích, bị dẫn qua khu chợ và quanh thành nội Huế ba ngày, lính mở đường đi trước rao tên và tội "Tả Đạo". Bức chân dung ấy, thánh nhân đã nhận để biểu lộ lòng sám hối và đức tin của mình.

Là một trung thần

Micae Hồ Đình Hy sinh năm 1808 tại Nhu Lâm, tỉnh Thừa Thiên trong một gia đình quan chức. Cậu là con út trong số 12 anh chị em. Từ nhỏ, cậu đã theo học các thày đồ nho. Hình như cậu cũng biết đôi chút sinh ngữ Anh, Pháp. Khi ra làm việc, anh là một thơ lại bộ Công. Năm 20 tuổi, anh Hy kết hôn với cô Lucia Tân, sinh hạ được năm người con. Người con cả sau này đi tu, học tại Pénang, rồi sau thụ phong linh mục là cha Thịnh. Dần dần, vì ông Hy thực hiện tốt mọi công tác được giao, nên được thăng lên chức Tham tá, hàm Lục phẩm. Dưới triều vua Tự Đức, ông lên tới chức Thái bộc, hàm Tam phẩm, đặc trách ngành dệt tơ lụa vải vóc trong cả nước. Uy tín ông ngày càng lớn và được vua tín cẩn. Khi một số quan lại ghen tương, xin truất chức quan Hồ Đình Hy, vua Tự Đức trả lời: "Không thể truất nhiệm ông ta được, vì ông đã chu toàn trách nhiệm theo lương tâm. Trước đây chưa ai giữ chức ấy được hai năm cả. Cho đến nay, ta chưa có gì phải khiển trách ông ta. Có lẽ ta sẽ tăng lương cho xứng với việc của ông ấy nữa là khác".

Dù làm quan dưới triều vua bách hại đạo, quan Thái bộc không ngại tỏ ra mình là người Công Giáo. Trong nhà, ông đạt bàn thờ Chúa nơi xứng đáng, thắp đèn trưng hoa mỗi ngày. Thế nhưng, khi giao dịch với giới quan lại, ông chịu ảnh hưởng nhiều tật xấu và xa ngã đôi phen: Ông quan hệ với một thiếu nữ trẻ, và sinh được ba người con ngoại hôn. Để chuộc lại lỗi lầm, ông đã rửa tội và đưa chúng về nuôi nấng tử tế như con chính thức của mình. Ông cố gắng làm nhiều việc thiện để đền bù tội lỗi xin Chúa thứ tha. Một hôm, ông tâm sự với bạn bè: "Tôi nghĩ dù có lấy nước của các con sông trên địa cầu, cũng không rửa sạch tội của tôi được. Có lẽ chỉ có thể rửa sạch chúng bằng chính máu của tôi thôi".

Ở đây chúng ta có thể ôn lại một vài mẫu gương sống trong đời ông:

- Có một người bị tố cáo lấy trộm kho lẫm nhà vua. quan Thái bộc can thiệp xin vua Tự Đức ân xá. Người này đến xin tạ ơn vị cứu tinh, và đặt lên bàn một túi tiền lớn. Nhưng ông nói với anh ta rằng: "Cầm tiền và đi ngay, bằng không tôi sẽ giao anh cho công lý bây giờ". Nhiều người nghe chuyện phải thốt lên: "Chưa bao giờ chúng tôi thấy ai tốt như thế". Người được ân xá không ngờ mình đã chạm đến đức thanh liêm của vị ân nhân.

- Một người khác nghiện thuốc phiện bị bệnh trầm trọng, và được giới thiệu đến nhà quan Thái bộc. Quan tiếp đón bệnh nhân rất tận tình, thu xếp cho ở trong căn lều phía sau nhà. Rồi mỗi ngày trước khi tới nhiệm sở và khi về, quan Thái bộc đều ghé thăm hỏi và chăm sóc bệnh nhân. Khi có người trách, ông trả lời rằng: "Phải làm nhiều việc thiện để đền bù tội lỗi chúng ta. Mà đã làm thì đừng máy móc qua lần chiếu lệ, phải làm với thiện ý, có thể mới lập được nhiều công phúc". Và ông cứ tiếp tục săn sóc suốt 15 ngày, cho đến khi người bệnh qua đời. Ông còn tổ chức lễ an táng một cách cẩn thận, chu đáo.

- Trong vùng có một người quá nghèo, nên bán hai bé gái cho một người ngọai giáo. Nghe biết chuyện, quan Hồ Đình Hy bỏ tiền ra chuộc lại hai cháu này đem về rửa tội, và nuôi nấng cho đến khi trưởng thành. Sau đó, với tất cả lòng quảng đại, ông đã đáp ứng theo như ý của hai cô: một người xin đi tu, một người lập gia đình.

Đức cha Pellerin Phan phụ trách giáo phận Đông Đàng Trong, tỏ ra tín nhiệm ông và trao cho ông trọng trách hỗ trợ các thày giảng ở tỉnh Thừa Thiên; sau đó lại ủy thác cho ông việc coi sóc tài sản và cơ sở truyền giáo trong giáo phận. Với trách vụ mới, ông đã quảng đại đóng góp nhiều tiền của, công sức cho Giáo Hội. Một lần kia, Đức cha đi thăm các giáo hữu, thuyền của Đức cha bị một thuyền khác tông vào. Chủ thuyền lạ này đòi bồi thường, ông Hy liền cởi chiếc áo quý ông đang mặc, trao cho người chủ thuyền đó, dù biết tai nạn này không do lỗi mình gây ra, nhưng vì ông muốn bảo đảm an toàn cho vị Giám mục.

Một lòng vì chúa

Cuối năm 1856, khi quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì quan Thái bộc Hồ Đình Hy bị bắt. Triều đình lấy cớ ông đã gửi con đi học ở Pénang, nghĩa là có giao thiệp với nước ngoài. Ông bị giam ngay tại Trấn phủ (Huế).

Vua Tự Đức ra lệnh cho quân lính bằng mọi cách bắt ông nhận tội, bắt bước qua Thập Gia và kê khai cac linh mục thừa sai hoặc linh mục Việt Nam, kể cả quân lính có đạo. Ông cương quyết không bỏ đạo, nhưng vì bị tra tấn quá đau đớn, ông lỡ lời nói tên một vài tín hữu. Thực ra, ông nghĩ rằng những người này đã trốn đi nơi khác, nào ngờ "bứt dây động rừng", dựa vào lời ông, triều đình bắt được 29 người. Trong đó tám người xuất giáo, còn 21 người kia kiê trung với đức tin, dù bị khắc trên má chữ "Tả Đạo" và bị lưu đày. Ông cho rằng tất cả bị bắt là bởi mình, nên khóc lóc ân hận, xưng tội xin Chúa thứ tha và kiên quyết dùng chính máu mình để rửa sạch lỗi lầm đó.

Một lần chính vua Tự Đức xét xử và khuyên ông nghĩ lại ít là giả bộ bước qua Thập Giá. Ông thẳng thắn từ chối: "Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước và tôi trung. Hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô, đền bù tội lỗi và chết thánh thiện".

Trở về ngục, ông nói với các bạn: " Tôi thấy đời tôi sắp tận số rồi, chỉ mong sao giữ vững được đức tin đến giờ phút cuốic đời".

Để nên giống Thày Chí Thánh.

Ngày 30.4.1857, vua kết án quan Hồ Đình Hy: "Khinh luật nước, theo tả đạo, lại gởi con đi Tân Gia Ba thăm đạo trưởng Oai và bàn chuyện liên lạc với tàu Pháp. Rõ ràng là đứa hai lòng đáng chết nghìn lần. Ta truyền phải chém đầu làm gương".

Vua còn ghi chi tiết phải xử thế nào: "Ta hạ lệnh cho năm quan triều đình và 15 binh sĩ dẫn y đi vòng quanh Thành Nội ba ngày. Khi đi ngang qua chợ và nơi công cộng, phải rao tội nó lên cho dân biết. Hơn nữa, tại mỗi ngã ba đường, ta truyền đành thêm 30 trượng. Sau ba ngày như thế thì chém đầu nó. Có thể bọn Gia Tô sẽ lấy làm tủi nhục mà lo sửa mình".

Tháng 5 năm đó, vào những ngày 15, 18 và 21 quân lính đã thi hành lệnh vua: Dẫn quan Thái bộc qua các nẻo phố Huế, dừng lại đánh đòn ở hai nơi, tổng số 60 trượng mỗi ngày. Một người lính đi trước tuyên bố theo lệnh rằng: "Hồ Đình Hy, kẻ theo tà đạo đứa ngỗ nghịch bất hiếu với mẹ cha, chống lại luật lệ triều đình. Vì thế y bị kết án phải chết. Bọn Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ được phúc Thiên Đàng. Điều đó đúng hay sai không ai biết. Giêsu của Hồ Đình Hy đâu rồi, sao thấy y khổ mà không đến cứu ?"

Như thế đó, quan Hồ Đình Hy, bức chân dung "NÀY LÀ NGƯỜI" Việt Nam bị lôi qua các đường phố cách thảm thương và tủi nhục. Nhưng quan Thái bộc vẫn kiên nhẫn cho đến cùng, không bỏ đạo. Sáng ngày 22.05, ông bị đưa ra pháp trường. Dân chúng tuôn đến xem rất đông. Dù lương hay giáo, họ bùi ngùi thương tiếc vị quan thanh liêm tốt bụng. Lúc qua cầu An Hòa, ông nói với lính rằng: "Đi xa làm chi, ở đây tôi có nhiều bạn hữu bà con". Thế là thay vì đến cống Đốc Sơ, ông được xử ngay tại đó.

Vì là quan nổi tiếng, lính cũng đành cho ông chút đặc ân cuối cùng: Ông thong thả rửa chân tay, rồi ngồi xếp bằng trên chiếu, bình tĩnh hút hết một điếu thuốc. Sau đó đứng lên, thật bình thản sửa soạn lại đầu tóc y phục cho chỉnh tề, rồi sốt sắng qùy gối cầu nguyện. Hai linh mục Việt Nam ẩn trong đám đông ra dấu tha tội cho ông. Cuối cùng, ông đưa đầu cho lý hình thi hành phận sự. Nước trời đã mở sẵn cửa để đón linh hồn vị chứng nhân anh dũng.

Đức Thánh cha Piô X suy tôn quan Thái bộc Hồ Đình Hy lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Lm. Đào Trung Hiếu, OP

Ngày 22 tháng 05
Thánh Laurensô NGÔN
Nông dân - (1840 – 1862)

Sức mạnh của đức tin

Hai mươi tuổi đời, người vợ trẻ yêu dấu còn đó, rồi cha mẹ đã bao năm dưỡng nuôi mình nay đang cần người phụng dưỡng…Đó là nỗi ưu tư lớn của Thánh Laurensô Ngôn trong những ngày bị giam. Nhưng cũng trong những chuyện tích của nhiều vị tử đạo khác tại Việt Nam, sự yểm trợ tinh thần của những người thân quảng đại, nhiều khi lại là yếu tố rất quan trọng. Gia đình anh Ngôn đồng ý cho anh đang chốn về thăm nhà, trở lại nhà giam để trình diện. Chính thân mẫu và người vợ hiền mà anh thương mến nhất, cũng đến hiện diện trong giờ hành quyết để khích lệ anh. Một lần nữa, chúng ta được chứng kiến sức mạnh của đức tin : Mạnh hơn bạo lực đàn áp, mạnh hơn mọi mất mát mà tinh thần và mạnh hơn cả sự chết.

Khôn Ngoan hay dại dột

Laurensô Ngôn chào đời năm 1840 trong một gia đình đạo dức thuộc xứ Lục Thủy (huyện Giao Thủy, phủ Thiên Trường, tỉnh Nam Định), một xứ đạo lâu đời của giáo phận Trung. Song thân là ông Đaminh và bà Maria Thảo. Anh đã lập gia đình và là một gia trưởng gương mẫu yêu thương vợ con. Một lần anh bị bắt và bị buộc chối đạo, có lẽ vì nặng lòng với gia đình, nhưng lại không thể bất trung với Chúa, anh đã hối lộ tiền cho quan để được tự do.

Cuộc bách hại đạo thời vua Tự Đức ngày càng khốc liệt. Chiếu chỉ cấm đạo cuối cùng vua ban hành ngày 05.08.1861 đã gieo rắc biết bao khốn khổ đau thương cho những người dân vô tội. Chiếu chỉ này làm cho hầu như các cơ sở của Giáo Hội bị tàn phá hoặc bị tịch thu. Hầu hết tài sản ruộng đất của người Công Giáo bị cướp bóc đốt phá và phân chia cho người ngoại giáo. Giáo hữu bị thích hai chữ "Tả Đạo" vào má, và cứ năm người ngoại giáo quản lý một tín hữu. Giáo hữu, tu sĩ bị bắt, và đa số bị chết rũ tù hoặc tử đạo, một số chốn lên rừng sâu chết đói hoặc chết bệnh dần dần… Trong lịch sử bách hại của giáo hội hoàn cầu, hiếm có nơi nào bị bách hại vừa tinh vi vừa tàn bạo như thế.

Vào giai đoạn cao điểm này, anh Laurensô Ngôn đã bị bắt quân lính ; lần thứ hai ngày 08.09.1861, anh bị giải về phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Trong tù vì lo lắng cho gia đình, anh tìm cách trốn về để trấn an và khuyến khích cha mẹ, vợ con bền chí trung thành với đức tin, rồi anh trở lại trại giam. Quan truyền lệnh đóng gông và giải anh sang nhà giam An Xá, thuộc huyện Đông Quan.

Trong ngục tù, anh Ngôn chịu nhiều khổ nhục vì danh Thày Chí Thánh. Thế mà anh vẫn chưa lấy làm đủ, anh còn ăn chay mỗi tuần ba lần, va anh thường hối tiếc ăn năn mỗi khi hồi tưởng những lầm lỗi trước đây. Ngoài ra, anh Ngôn luôn an ủi khích lệ các bạn tù can đảm chấp nhận mọi cực hình, đừng bao giờ xúc phạm đến Thiên Chúa. Lời anh còn được cac bạn tù nhắc nhở : "Chúng ta hãy bền vững kiên trì, dù bị đòn đánh tra tấn giã man. Chúng ta hãy lo lắng sợ hãi khi nghĩ tới tội chà đạp Thánh Giá ".

Lần kia quan án gọi anh và dụ dỗ : "Anh còn trai trẻ, sao lại dại dột muốn chết ? Hãy bước qua Thập Tự, anh sẽ được trả về với gia đình". Anh ngôn trả lời:

"Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể trời đất. Thập Giá là phương thế Thiên Chúa đã dùng để cứu độ nhân loại, tôi chỉ có thể tôn kính chứ không bao giờ chà đạp. Nếu quan cho tôi sống tôi cám ơn quan, còn không, tôi sẵn sàng vui lòng chịu chết vì đức tin vào Chúa tôi".

Trong một cuộc tra tấn khác, khi quân lính tìm cách bắt anh chà đạp lên Thánh Giá thì lúc đó anh lại qùy phục xuống và kính cẩn cúi lậy Thánh Giá. Thái độ trung tín, hiên ngang đó khiến các quan càng tức giận, họ đã lên án trảm quyết anh.

Vinh hiển vĩnh hằng

Tám tháng rưỡi sau ngày bị bắt, người tôi trung Lourensô Ngôn đã được diễm phúc đổ máu ra vì danh Đấng đã hy sinh mạng sống cho anh cùng toàn thể nhân loại. Trước sự chứng kiến của hai người thân nhất: thân mẫu và người vợ hiền, anh Ngôn đã hiên ngang bước ra pháp trường An Triêm (Nam Định) lãnh phúc tử đạo ngày 22.05.1862.

Tại kinh thành Muôn Thuở Vatican, trong Vương Cung Thánh Đường Phêrô, ngày 29.04.1951, người thanh niên can trường Laurensô Ngôn đã được vị đại diện Đức Kitô dưới trần gian, Đức Piô XII suy tôn lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.

"Ước gì những người chịu đau khổ vì nghèo khó tật nguyền, đau yếu và người thử thách khác: chịu bách hại vì công chính, cũng biết kết hợp cách đặc biệt với Chúa Kitô, Đấng đã chịu đau khổ để cứu chuộc thế giới. Vì Chúa đã tuyên bố họ là người có phúc, và vì Thiên Chúa của mọi người ơn phúc, Đấng đã kêu gọi chúng ta đến sự vinh hiển muôn đời trong Chúa Giêsu Kitô, sau khi chúng ta chịu khổ trong thời gian ngắn. Chính ngài sẽ làm cho chúng ta hoàn hảo, vững chắc và mạnh mẽ (1Pr 5,10)". (Hiến chế giáo hội, số 41).
Đúng 100 năm sau cái chết kiên cường của người thanh niên trẻ trung : Laurensô Ngôn, lời huấn dạy của công đồng chung Vatican II như đã lập lại chính những gì mà anh Ngôn cùng bao vị tử đạo thời đại anh đã thể hiện.


Ngày 25 tháng 05
St. Bede - The Venerable
Tiến Sĩ Hội Thánh
(672-735)

Saint Beda the VenerableNgài sinh năm 672 tại Wearmouth, nước Anh. Ngài là một tu sĩ dòng Biển Đức thuộc đan viện thánh Phêrô và Phao Lô tại Wearmouth, Jarrow nước Anh, chịu chức linh mục năm 702 do thánh John of Berverley. Ngài đi theo đường lối của thánh Benedict Biscop và thánh Ceolfrido tận tâm trong cầu nguyện, học hỏi và giảng dạy tại tu viện ở Jarrow.

Ngài được người đương thời gọi là "vị đáng kính" vì những tác phẩm phong phú của người để lại, thuộc mọi môn như chú giải Thánh Kinh, thần học, lịch sử, ngữ vựng, thi ca... Ngài có ảnh hưởng rất lớn trên giáo hội tây phương hay Latin. Tác phẩm về thời gian - De temporibus - giúp đi đến quyết định chọn mầu nhiệm nhập thể làm thời điểm ghi ngày tháng khởi đầu mọi biến cố. Nhưng ngài cũng là một tông đồ của phép Thánh Thể, khuyên dụ mọi người sự chịu lễ nhiều lần. Ngài cũng là tác giả cuốn lịch sử giáo hội "người Angles" rất được chú ý.


Được gọi là "đáng kính" nhưng ngài cũng rất thánh thiện. Cái chết của ngài rất đặc biệt, ngài hội các anh em lại, xin cầu nguyện và nằm trên giường, ngài đọc đến câu cuối cùng Phúc Âm Thánh Gioan do người phiên dịch ra Anh ngữ trong thời gian ngài lâm bệnh, rồi ngài xin mọi người đặt ngài xuống nền đất và cất tiếng hát tiểu khúc " Ôi Vua vinh quang" của giờ kinh ngày lễ Thăng Thiên và ngài qua đời ngày 25 tháng 5 năm 735 và được chôn táng tại Jarrow nhưng sau được vua Edward chuyển về nhà thờ chính tòa ở Durham.

Ngài được tuyên xưng là Thánh và là Tiến Sĩ của Hội Thánh do Đức Thánh Cha Leo XIII ngày 13 tháng 11 năm 1899.

Thánh Grêgôriô VII
Ngày 25 tháng 05
Thánh Grêgôriô VII
Giáo Hoàng (1015- 1085)

Thánh Grêgôriô VII tên thật là Hildebrand, sinh năm 1015 tại Sovana miền Toscane trong một gia đình trung lưu nước Ý. Ngài đã có công phục hưng tinh thần dạo đức của hàng giáo sĩ và tranh đấu cho tự do của Giáo Hội. Từ thời niên thiếu, ngài đã được sống trong bầu khí tu viện; và nhờ trí thông minh và lòng đạo đức, ngài đã thu lượm nhiều kết quả tốt đẹp. Khi Ðức Lêô IX lên ngôi, ngài được cử giữ những chức vụ quan trọng, và nhân dịp này, ngài đã đem hết tài lực ra ngăn chặn làn sóng sa đọa đang bành trướng trong Giáo Hội, bênh vực đức tin chống lại những giáo thuyết sai lầm của các bè rối. Ðược chọn làm Hồng Y, ngài giữ nhiều chức vụ và sứ mạng quan trọng dưới thời Lêô IX, Victo II, Stêphanô IX, Nicolao II và Alexandre II. Sau khi đức Alexandre mất (1073), ngài được bầu lên kế vị.

Dù ở địa vị Giáo Hoàng, ngài vẫn tiếp tục sống một cuộc đời khắc khổ như cũ.

Dưới triều đại của ngài, Giáo Hội phải trải qua những giây phút đen tối nhất: tinh thần đạo đức bị sa sút, các đế quốc xâm lăng thánh địa và quyền hành của Hội Thánh bị chi phối. Bằng nguyện cầu, hy sinh và lòng nhiệt thành hăng hái, ngài cương quyết bảo vệ tự do, uy quyền và tài sản Giáo Hội. Chính vì thế, ngài đã gặp phải nhiều đau khổ. Bị ép buộc rời khỏi Rôma, và sau đó, ngày 25/5/1805, ngài qua đời tại Salec. Lời vàng ngọc của ngài trối lại khi sắp chết: “Tôi yêu sự công chính và ghét điều bất công. Ðó là lý do tôi phải chết trong cảnh lưu đày này”.

Tuy không đổ máu, nhưng đời sống tranh đấu của ngài xứng đáng được Ðức Grêgôriô VIII liệt vào hàng các vị tử đạo và được Ðức Phaolô V phong lên bậc Hiển Thánh.



Ngày 25 tháng 05
Thánh Maria Mađalêna Pazzi
(1566 -- 1607)

Sự ngây ngất huyền bí là nâng tâm hồn lên đến Chúa trong một phương cách có ý thức về sự kết hợp này, đồng thời, các giác quan nội tại và ngoại vi đều tách biệt khỏi thế giới cảm xúc. Thánh Maria Mađalêna Pazzi được Chúa ban cho ơn đặc biệt này thật nhiều đến nỗi người ta gọi ngài là "thánh ngây ngất."

Ngài tên thật là Catarina "de' Pazzi", sinh trong một gia đình quyền quý ở Florence năm 1566. Bình thường, ngài đã có thể lấy một người chồng giầu sang và an hưởng cuộc đời nhàn hạ, nhưng ngài đã chọn một con đường đặc biệt cho chính mình. Ngay từ khi chín tuổi, ngài đã tập suy niệm qua sự chỉ bảo của cha giải tội cho gia đình. Lúc 10 tuổi ngài được rước lễ lần đầu và một tháng sau đó ngài thề giữ mình đồng trinh. Khi 16 tuổi, ngài gia nhập Dòng Camêlô ở Florence chỉ vì muốn rước Mình Thánh Chúa hằng ngày (là một điều ngoại lệ vào thời ấy).

Vào dòng, Catarina lấy tên là Maria Mađalêna và khi bị từ chối không cho khấn trọn vì còn nhỏ tuổi, ngài lâm bệnh nặng. Tưởng ngài sắp chết, mẹ bề trên cho ngài khấn trọn khi còn nằm trên giường bệnh trong một nghi thức đặc biệt. Nhưng ngay sau đó, ngài rơi vào trạng thái ngây ngất (xuất thần) và kéo dài khoảng hai giờ đồng hồ. Trong vòng 40 ngày kế tiếp, trạng thái này liên tục xảy ra sau mỗi lần rước Mình Thánh Chúa. Những lần ngây ngất này đầy dẫy những cảm nghiệm hợp nhất với Thiên Chúa và chứa đựng những hiểu biết lạ lùng về chân lý của Thiên Chúa.

Ðể khỏi bị lừa gạt và để giữ lại các điều mặc khải, cha giải tội yêu cầu ngài kể lại các điều được cảm nghiệm để các nữ tu thư ký ghi chép lại. Chỉ trong vòng sáu năm, các trang giấy ghi chép ấy đã tổng hợp thành năm bộ sách lớn.

Những gì chúng ta cho là phi thường thì đối với thánh nữ lại là điều bình thường. Ngài có thể đọc được tư tưởng của người khác, và tiên đoán các biến cố tương lai. Ngay khi còn sống, ngài đã xuất hiện với vài người ở cách xa nhau và đã chữa nhiều người khỏi bệnh.

Qua những ơn sủng kỳ lạ của thánh nữ, chúng ta tưởng rằng ngài luôn luôn sống trong trạng thái tinh thần cao độ. Sự thật thì khác hẳn. Dường như Thiên Chúa cho phép ngài được gần gũi với Chúa một cách đặc biệt là để chuẩn bị cho thời gian cô độc khi thánh nữ cảm thấy đời sống tâm linh khô khan một cách kỳ lạ. Vào năm mười chín tuổi ngài bắt đầu thời kỳ năm năm dài thật khô khan và lẻ loi, bị cám dỗ đủ mọi mặt. Tâm hồn ngài lúc ấy như một căn phòng tối đen với chút ánh sáng thật yếu ớt mà chỉ làm bóng đêm thêm dầy đặc. Ngài thật buồn sầu đến nỗi đã hai lần toan tự tử. Tất cả những gì ngài có thể làm để chống trả các cám dỗ là kiên trì cầu nguyện, hãm mình, phục vụ tha nhân dù rằng tất cả những điều ấy dường như vô nghĩa.

Vào năm 1604, bệnh nhức đầu và tê bại khiến ngài phải nằm liệt giường. Tất cả các giác quan của ngài thật nhạy ứng đến độ bất cứ đụng đến đâu, thân thể ngài đau khủng khiếp. Sau ba năm chịu đựng, ngài từ trần năm 1607 khi 41 tuổi, và được phong thánh năm 1669.

Lời Bàn

Sự kết hợp mật thiết, mà Chúa ban cho các vị thần nghiệm, là một nhắc nhở cho tất cả chúng ta về sự kết hợp vinh phúc đời đời mà Người muốn ban cho chúng ta. Trong cuộc đời trần thế, Chúa Thánh Thần là động lực tạo nên sự ngây ngất huyền nhiệm qua các ơn sủng thiêng liêng. Sự ngây ngất xảy ra là vì thân xác quá yếu đuối, không thể chịu đựng nổi sức khai minh thánh thiêng, nhưng khi thân xác được thanh tẩy và vững mạnh, sự ngây ngất không còn xảy ra nữa. (Muốn biết thêm về sự ngây ngất, tìm đọc cuốn Interior Castle [Thành Trì Nội Tâm] của Thánh Têrêsa Avila, và cuốn Dark Night of the Soul [Ðêm Tối của Linh Hồn] của Thánh Gioan Thánh Giá.)

Lời Trích

Nhiều người ngay nay không thấy giá trị của sự đau khổ. Thánh Maria Mađalêna Pazzi khám phá ra ơn cứu độ trong sự đau khổ. Khi đi tu, ngài ao ước chịu đau khổ vì Ðức Kitô trong suốt cuộc đời. Lời di chúc của thánh nữ để lại cho các nữ tu trong dòng là: "Ðiều sau cùng tôi muốn xin các chị -- và tôi xin vì danh Chúa Giêsu Kitô -- đó là các chị chỉ yêu thương một mình Người, hoàn toàn tín thác vào Người và khuyến khích lẫn nhau tiếp tục chịu đau khổ vì yêu thương Người."

Ngày 25 tháng 05
Thánh Phêrô ĐOÀN VĂN VÂN
Thày giảng - (1780 – 1857)

Người quản lý trung tín.

Ẩn trốn xa xứ nhà chưa được bao lâu, thày Phêrô Đoàn Văn Vân đã bồn chồn lo lắng, không yên lòng về các công việc của giáo xứ. Gần trót cuộc đời thày gắn liền với trách vụ quản lý xứ. Thày dành hết nhiệt huyết mình lo chu toàn nhiệm vụ, luôn cần mẫn miệt mài với công việc, coi đó là sứ vụ Chúa trao phó.

Thày Cai Vân quyết định trở về nhiệm sở của mình. Quyết định đó, lòng nhiệt thành với chức vụ đó, đã đưa thày vào con đường tử đạo. Thày bị bắt ở cổng làng Tiên Cát trên đường đến nhà xứ.

"Nhân đức như thày Cai vân"

Phêrô Đoàn Văn Vân sinh năm 1781 tại làng Kẻ Bói, xứ Kẻ Sông, tỉnh Hà Nam, khi còn nhỏ cậu ở với cha Thi và được gởi đi học trường Latinh. Năm 25 tuổi, cậu trở thành thày giảng và đi giúp các xứ đạo. Sau cùng thày được cử về làng Bầu Nọ, tức làng Nỗ Lực sau này, và lo việc quản lý nhà xứ.

Thày tận tụy với công việc, có lòng thương người nghèo khó, hiền lành hòa nhã với mọi người, nhưng lại nghiêm ngặt với chính mình. Thày ăn uống thanh đạm, trang phục đơn giản. Ngoài việc quản lý, thày còn chăm lo đời sống đạo của tín hữu, thăm bệnh nhân, giúp đỡ người hấp hối chuẩn bị về nhà cha trên trời, giàn xếp các mối bất hòa, chia rẽ...

Cuộc sống nhân đức của thày là tấm gương trong giáo phận. Khi khen ngợi một thày giảng nào, các tín hữu hay nói: "Ông này nhân đức như thày Cai Vân’.



Bản án đạo trưởng

Khi đó hai chức sắc trong làng tên là Tương và Huống bị thua bạc hết cả tiền đóng thuế của dân, liền kéo nhau vào nhà xứ, xin vay thọc để đền trả. Nghĩ rằng những người này quá mê bài bạc, thày Cai Vân từ chối. Thế là họ manh tâm thù oán và tố cáo với quan là : "Làng Nỗ Lực có đạo trưởng, có cả đạo đường và đạo quán nữa" (1). Quan liền đem quân đến vây, nhưng hôm đó không bắt được ai. Mấy ngày sau, Tương và Huống đón đường bắt trói thày Cai Vân đem nộp cho quan, và vu cáo thày là đạo trưởng.

Trước công đường, quan phủ thấy vị bô lão đã ngoài thất tuần, chỉ tra vấn thày xem có thực là đạo trưởng không. Thày khiêm tốn trả lời : "Bẩm quan, tôi nói thật không giám khai man, tôi chỉ là thày giảng. Quan lớn cho tôi là đạo trưởng thì đó là ý quan lớn, chớ tôi không giám nhận". Quan lại khuyên dụ thày quá khóa để được tha, nhưng thày trả lời: "Bẩm quan lớn, tôi giữ đạo đã bấy nhiêu tuổi đời, lẽ nào còn bỏ đạo".

Thày bị giam ở Lâm Thao khoảng bốn tháng. Giáo hữu không giám đi lại thăm nom, vì sợ quan làm khó dễ thày. Chỉ có cha Nghiêm lén vào giải tội cho thày được hai lần, rồi nhờ giáo hữu Lê văn Giáp đưa Mình Thánh. Được rước Chúa, thày thấy được an ủi lắm. Sau khi bị chuyển về giảmơ tỉnh Sơn Tây hơn hai tháng. Thời gian này, vì không có đồ tiếp tế nên thày sống cực khổ, đói khát, và vì không có tiền cho lính canh nên thày bị khinh dể, sỉ nhục và khó khăn trong mọi việc. Dầu thày Vân cải chính nhiều lần, các quan vẫn khép án thày là đạo trưởng.



Phần thưởng người tôi trung.

Khi án của thày Cai Vân "Gia Tô đạo trưởng" được vua châu phê, thày vui mừng chờ đợi ngày hồng phúc. Trên đường ra pháp trường, người ta thấy vị bô lão 77 tuổi, kiệt sức, hai người lính đỡ hai bên gông để thày đi khỏi té ngã, một người lính khác quàng dây thừng vào cổ tử tội lôi đi. Nhưng khuôn mặt thày luôn vui tươi bình thản.

Đến pháp trường, thày xin lý hình thong thả cho vài phút để cầu nguyện. Sau đó, thày cúi đầu chịu chém, lý hình vung gươm lên và đầu thày cai lìa khỏi cổ. Thày Cai Vân hoàn tất tốt đẹp cuộc đời trần thế. Đời thày là một cuộc đời gương mẫu "một người quản lý trung tín, biết phân phát lúa đúng giờ cho gia nhân". Hơn nữa, điều qúy báu đối với thày Cai Vân chính là : "Phúc cho đầy tớ nào khi chủ về thấy làm như thế". Thày Vân đã sống trọn hảo và hiến mạng sống người mình vì sứ vụ Chúa đã trao ban.

Hôm đó là ngày 25.05.1857. Giáo dân làng Bách Lộc đã an táng vị tử đạo ngay chính nơi xử án. Sau lại chuyển thi hài thày về mai táng ở nhà thờ Bách Lộc.

Đức Piô X suy tôn thày Phêrô Đoàn Văn Vân lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.
 

langvuon

khoai nướng
Ðề: Lịch Phụng Vụ tháng 5/2011

Thứ Năm 26 Tr
Thứ Năm sau Chúa Nhật thứ V Mùa Phục Sinh
Lễ nhớ Thánh Philip Neri, Lm
Cv 15: 7-21 Tv 96: 1-2, 2-3, 10 Ga 15: 9-11
Kính thánh tử đạo Gioan Hoan, Lm, Matthêu Nguyễn Văn Phượng, Trùm họ

Thứ Sáu 27 Tr
Thứ Sáu sau Chúa Nhật thứ V Mùa Phục Sinh
Thánh Augustinô đệ Canterbury, Gm
Cv 15: 22-31 Tv 57: 8-9, 10-12 Ga 15: 12-17
Kính thánh tử đạo Phaolô Hạnh, Giáo dân

Thứ Bảy 28 Tr
Thứ Bảy sau Chúa Nhật thứ V Mùa Phục Sinh
Cv 16: 1-10 Tv 100: 1-2, 3, 5 Ga 15: 18-21

Ngày 26 tháng 05
Thánh Philíp Nêri
(1515-1595)

Thánh Philíp Nêri, vị "Tông Ðồ của Rôma", là một trong những khuôn mặt lớn của cuộc Cải Cách Công Giáo. Một trong những điều đáng kể của thánh nhân là ảnh hưởng của ngài, dù ngài không viết một cuốn sách, không đề nghị một học thuyết gì mới mẻ, và cũng không khởi xướng một phong trào linh đạo nào. Nhưng tinh thần vui tươi và thánh thiện của ngài đã làm sống dậy tinh thần đạo đức ở Rôma vào thời ấy.

Thánh Nêri sinh ở Florence, nước Ý năm 1515. Ngay từ khi còn trẻ, ngài đã khước từ cơ hội để trở thành một doanh gia và lên Rôma với ý định tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Trong vài năm, ngài sống thật đơn giản, ngoài thời giờ học hỏi, ngài còn đi dạy thêm để đủ sống. Ðây là quãng thời gian cầu nguyện và chuẩn bị cho một ơn gọi mà ngài chưa biết rõ.

Thành phố Rôma thời bấy giờ trong tình trạng thối nát về tâm linh và đạo đức. Các giáo hoàng thời Phục Hưng thường nổi tiếng về mưu đồ và tài năng chính trị hơn là đời sống gương mẫu. Việc tấn phong các hồng y nếu không được quyết định bởi lý do chính trị thì cũng vì lý do phe cánh. Cả thành phố đắm chìm trong tình trạng hoài nghi yếm thế đối với sứ điệp Kitô Giáo. Tuy nhiên, chính trong hoàn cảnh này, Philíp Nêri đã nhận ra ơn gọi của mình, đó là tái-phúc-âm-hoá Rôma.

Quả thật là một công việc táo bạo, nhưng với nhiệt huyết, Nêri đã khởi sự ngay ở các đường phố qua các cuộc đối thoại về tôn giáo với bất cứ ai ngài gặp, bất cứ đâu có cơ hội. Không bao lâu, những người quen biết ngài ngày càng đông và họ cảm mến sự thẳng thắn cũng như khả năng thấu suốt linh hồn của họ mà Chúa đã ban cho ngài.

Vào năm 1550, khi ngài ba mươi lăm tuổi, qua sự khuyến khích của cha giải tội, ngài chịu chức linh mục. Ngay sau đó, ngài trở thành cha giải tội nổi tiếng và ngài thường tổ chức các buổi học hỏi, nói chuyện ngay trong khuôn viên các đền thánh ở Rôma.

Ngay trên căn gác của ngài sinh sống, thường có các buổi hội thảo về đời sống tâm linh của những người theo ngài, gồm các giáo sĩ cũng như giáo dân. Ðây là khởi sự của Tu Hội Oratory mà đặc điểm là cầu nguyện và hát thánh vịnh bằng tiếng bản xứ cũng như mỗi ngày đều có bốn cuộc hội thảo bán chính thức.

Hình thức sinh hoạt "mới lạ" này đã bị Tòa Thẩm Tra nghi ngờ. Có phải Nêri toan tính một loại sinh hoạt thiên về Tin Lành ngay trong thủ đô Rôma hay chăng? Sau giai đoạn đau khổ vì bị cáo buộc là tụ tập những kẻ lạc giáo, mà trong đó giáo dân có thể giảng và hát thánh vịnh bằng tiếng bản xứ, cuối cùng Tu Hội Oratory đã được chấp thuận. Hiến pháp của tu hội phải ảnh tinh thần của Thánh Philíp Nêri, chú trọng vào ý chí cá nhân hơn là thẩm quyền pháp lý. Các linh mục không có lời khấn. Họ tự ràng buộc chính mình, vì như Cha Philíp Nêri đã nói, "Nếu bạn muốn vâng phục, thì không cần đến mệnh lệnh".

Ngay khi ngài còn sống, đã có nhiều phép lạ xảy ra nhờ lời cầu nguyện của ngài. Vào ngày lễ Hiện Xuống năm 1544, ngài được một cảm nghiệm siêu nhiên về tình yêu Thiên Chúa mà sau đó, mỗi khi dâng Thánh Lễ, khuôn mặt ngài tỏa sáng lạ thường. Dân chúng đều coi ngài là thánh, nhưng chính ngài lại giả điên giả khùng với khuôn mặt chỉ cạo râu có một nửa để khỏi bị dân chúng tôn sùng.

Vào những năm cuối đời, thánh nhân là tâm điểm đời sống tâm linh của Rôma trong nhiều phương cách.

Không chỉ có các linh mục trong tu hội, mà cả các giám mục và hồng y đã tìm đến căn phòng nhỏ bé của ngài để xin hướng dẫn linh đạo. Người dân Rôma, ai ai cũng biết đến công việc bác ái của thánh nhân, đặc biệt là việc cung cấp linh mục tuyên uý cho các nhà thương thành phố. Sau cùng, vào ngày 25 tháng Năm 1595, sau khi nghe xưng tội và tiếp khách, trước khi về phòng nghỉ, ngài tuyên bố, "Rốt cục, chúng ta đều phải chết." Quả thật, đêm ấy ngài đã trút hơi thở cuối cùng, hưởng thọ 80 tuổi.

Lời Trích

Khi được hỏi ngài cầu nguyện thế nào, Thánh Philíp Nêri trả lời: "Hãy khiêm tốn và phó thác, và Chúa Thánh Thần sẽ dạy bạn cầu nguyện."


Ngày 26 tháng 05
Thánh Gioan ĐOÀN TRINH HOAN
Linh mục - (1798 - 1861)

Theo Đức Kitô

Đức Kitô đã chết để cứu độ nhân loại. Thánh Gioan Hoan đã ý thức cuộc tử đạo là cách noi gương Chúa tuyệt hảo nhất, và tự nguyện đón nhận nó. Trong những ngày cuối cùng, cha đã mượn lời thánh Phaolô để khuyên nhủ những bạn tù rằng:

“Anh em hãy theo gương tôi, như tôi đã noi gương Đức Kitô (1Cr 11,1). Khi đến phiên mình, anh em hãy theo đường khổ giá tôi sắp đi đây”.

Gioan Đoàn Trinh Hoan sinh năm 1798 tại họ Kim Long, Phú Xuân (Huế) trong một gia đình nề nếp, đạo hạnh, nhờ sự hỗ trợ của gia đình, cậu đã dâng mình cho Chúa, và theo học tại chủng viện Pénang (Mã Lai) của hội Thừa Sai Paris. Về sau học song thần học, năm 1836, thày Gioan về nước thụ phong linh mục tại Sài Gòn, phục vụ đắc lực cho Giáo Hội Việt Nam.

Vì sứ mạng tông đồ.

Trong 26 năm linh mục, cha Gioan Hoan đã lãnh nhận nhiều nhiệm sở. Cha nhiệt tình hoạt động nhưng điềm tĩnh, thận trọng và yêu thương mọi người. Hơn nữa, cha có biệt tài nói chuyện rất duyên dáng, nên ở đâu cũng được mọi người quý mến. Dưới thời vua Tự Đức, cha là một trong những linh mục Việt Nam có uy tín nhất do khả năng, tuổi tác và kinh nghiệm hoạt động lâu năm. Dù phải thay đổi chỗ ở liên tục, thực tế cha phải sống ở trên thuyền nhiều hơn trên đất liền, cha vẫn kiên tâm đầu tư tim óc vào việc đào tạo các thày giảng và cổ động hỗ trợ ơn gọi linh mục nơi các thanh thiếu niên. Cha hướng dẫn và giới thiệu nhiều bạn trẻ vào chủng viện của giáo phận.

Đầu năm 1861, nhân dịp lễ Hiển Linh, cha đến xứ Sáo Bùn (Quảng Bình) để thăm viếng, khích lệ các giáo hữu, giải tội và giúp họ mừng lễ. Như thường lệ, cha đến trọ nhà ông Trùm Phượng. Tối ngày 03.01, quan quân nghe tin báo đến bao vây và truy bắt, cha chạy ra sông tìm đường đi trốn, không ngờ vừa đến bờ sông thì gặp ngay một toán lính đi đến. Cha định núp sau một đống củi, nhưng không kịp. Lính bắt và giải cha vào Đồng Hới. Khi đó cha đã 63 tuổi.

Trước tòa án, quan tỉnh đã cho dùng mọi hình thức tra tấn dã man. Ông cho đánh đập tàn nhẫn, rồi cho nung đỏ kìm sắt kẹp vào đùi và tay cha, để bắt cha bước qua Thập Gía và khai thác tin tức về Giáo Hội. Thế nhưng ông đã thất bại hoàn toàn. Dù đau đớn đến lỗi có khi ngất xỉu, cha Gioan Hoan vẫn cắn răng không nói một lời, không tiết lộ những gia đình cha đã trú ngụ, và dĩ nhiên không chịu chối đạo. Ông trùm Phượng và bảy tín hữu khác cùng bị bắt ở Sáo Bún cũng theo gương cha, không tiết lộ chi tiết nào có hại đến những người khác. Cha Hoan và ông trùn Phượng bị kết án xử tử, còn những người kia phải lưu đày chung thân.

Khu vực giam cha Hoan cũng có nhiều Kitô hữu, vì chiến dịch bắt đạo tháng 10.1859 đã gom nhiều chức sắc trong các giáo xứ, và riêng ở Huế thì tập chung mọi tín hữu trên 50 tuổi. Nhà vua trù tính kế hoạch làm áp lực với quân Pháp để họ triệt thoái các tàu bè ở Cửa Hàn. Nhờ tài xã giao lịch thiệp, cha Hoan đã chiếm được thiện cảm của toàn lính canh ngục. Ngài có thể dễ dàng đến các phòng giam khác của khu vực để thăm viếng các tín hữu.

Trong năm tháng tù giam, cha Hoan dành rất nhiều thời giờ để giải tội, chúc lành và khích lệ các tín hữu. Nhận được Mình Thánh Chúa ở ngoài gởi vào, cha rước lễ và chia sẻ cho anh em. Thật cảm động biết bao hình ảnh người cha già, tay chân cũng mang xiềng, cổ cũng đeo gông và nắm chắc bản án vì đức tin, đến gặp từng người bạn sắp ra pháp trường để nói đôi lời ủy lạo và ban cho họ “của ăn đàng”. Chính Bánh Trường Sinh, lương thực thiêng liêng đó đã củng cố sức mạnh cho họ trên hành trình cuối cùng về nhà Cha.

Ngày 25.05, trước ngày bị chém đầu, vị mục tử còn đi một vòng thăm các bạn tù lần cuối, khuyên nhủ họ: “Giờ cuối cùng của tôi không còn xa. Phần anh em, những người con yêu quý, anh em còn ở lại trên trần gian đau khổ này, anh em hãy trung tín đến cùng. Xin anh em cầu nguyện cho tôi hoàn thành ý Chúa cho trọn”.

Sau khi nghe đọc bản án, cha nói: “con tạ ơn Chúa, Ngài đã cho con biết trước giờ đổ máu vì danh Ngài”.

Dưới bóng Nữ Vương tử đạo

Tối hôm đó cha thức thật khuya để ủy lạo bạn hữu và giải tội cho một vài người. Sáng sớm hôm sau, tù nhân ở các phòng khác cũng được phép đến gặp và giã từ cha. Cha nói: “Thưa anh em, tôi dám xin mượn lời thánh Phaolô để nói với anh em rằng: Anh em hãy noi gương tôi, như tôi đã noi gương Đức Kitô”. Cha con vui vẻ hàn huyên mãi không dứt, cho đến khi có lệnh ra pháp trường. Cha nhanh nhẹn đứng lên, cổ vẫn đeo gông nặng trĩu bước theo viên cai ngục.

Ra đến cửa, cha gặp lại ông Phượng, người đã cho cha trú ngụ cũng bị đem đi xử, hai toán toán lính cầm bản án đi phía trước: “Người này tên Hoan, Gia Tô đạo trưởng, dạy đạo tà và quyến rũ dân chúng. Vi phạm đến luật nhà nước là một trọng tội. Phải đem đi xử trảm ngay”. Đến pháp trường, hai vị quỳ trên chiếu đã trải sẵn. Quan hỏi vị tông đồ có muốn trói vào cột không, cha trả lời: “Không cần, tôi sẽ quỳ yên không nhúc nhích. Nếu tôi không tự nguyện nhận cái chết, tôi đã chẳng đến đây. Xin cho tôi vài phút để cầu nguyện”.

Sau đó cha ngước mắt lên trời tạ ơn Chúa, giơ tay giải tội cho ông Phượng và ra dấu sẵn sàng. Viên lý hình được chỉ định thấy thái độ dũng cảm của cha, biết cha vô tội nên nhờ người lý hình khác. Anh lý hình không quen đã phải chém đến ba nhát, sau đó dùng gươm cứa đứt miếng da còn sót lại.

Trước đó, khi cha cởi áo, thấy hai mảnh “Áo Đức Bà” cha đeo phất phới trước ngực, một người lính tưởng là thứ gì quý giá thì xin, nhưng vị chứng nhân Chúa Kitô trả lời: “Cái này tôi không thể cho ai được. Đây là hình ảnh Đức Nữ Vương và là bà Chúa của tôi”.

Giờ đây vị tử đạo đã được Chúa đón về trời để gặp Đức Maria, Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo mà cha hằng tôn kính. Đức Thánh Cha Piô X suy tôn linh mục Gioan Đoàn Trinh Hoan lên hàng Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.


Ngày 26 tháng 05
Thánh Matthêu NGUYỄN VĂN PHƯỢNG
Trùm Họ - (1808 - 1861)

Chết Là Vận May

Giờ phút xử tử đã điểm. Lý hình chuẩn bị sẵn sàng. Bên ba người con, hai trai, một gái đang quỳ khóc lóc tiễn biệt, thánh Mattêu Phượng vẫn nói những lời tràn đầy tin tưởng. Bởi vì ngài đã được chuẩn bị từ lâu cho biến cố tử đạo này: “Các con của cha ơi, đừng khóc, đừng buồn làm chi. Cha đã gặp vận may mắn. Anh em chúng con hãy sống thuận hòa yêu thương đùm bọc nhau”.

Matthêu Nguyễn Văn Phượng chào đời khoảng năm 1808 tại làng Kẻ Lái, tỉnh Quảng Bình, con ông Nguyễn Văn Bường, quân nhân. Cha mẹ đều là người Công Giáo đạo đức. Tên gọi của ông là Đắc, trong sổ là Kế, và sau khi lập gia đình, người ta mới gọi ông là Phượng theo tên người con cả.

Tình yêu phục vụ

Mồ côi cha từ năm lên mười, hai năm sau lại mồ côi mẹ, cậu Đắc sớm phải lo tự lực mưu sinh. Anh theo học nghề thuốc với thày lang Nhu, tuy ngoại đạo nhưng tính rất tốt, đã chỉ dẫn cho anh nhiều bài thuốc quý. Dưới thời vua Minh Mạng, anh theo giúp cha Điểm suốt bảy năm liền một cách tận tụy như người con hiếu thảo. Đổi lại, như người cha ruột, cha Điểm đã mai mối cho anh cưới một thiếu nữ hiền hậu xứ Sáo Bún, năm đó anh 22 tuổi. Từ ngày ấy, anh dọn về ở với bố vợ, tức ông đội Khiêm và hành nghề y sĩ. Được vài năm, anh chuyển sang nghề buôn bán. Nói chung, anh khá thành công trong nghề mới, nên gia đình luôn được sung túc.

Thời gian thấm thoát, gia đình ông Phượng sinh hạ được tám người con. Dầu bận rộn với việc buôn bán, ông vẫn chu toàn việc giáo dục con cái, sống trọn vẹn với luật mến Chúa yêu người. Đặc biệt ông dạy bằng gương sáng. Chính ông siêng năng xưng tội rước lễ khi có thể, rồi nhắc nhở các con. Mỗi tuần ông đều thu xết thời giờ đi thăm bệnh nhân, và đến giúp đỡ bà con nghèo ở chung quanh. Cô Thủ, con gái ông, dâng mình cho Chúa trong dòng Mến Thánh Giá. Khi con cái đã trưởng thành, ông tìm nơi đạo hạnh để thông gia, và chia cho các con toàn bộ tài sản của mình, chỉ giữ lại những thứ tối cần thôi.

Năm ông 50 tuổi, vợ ông từ trần. Ông cho gọi cô Phượng, con cả, lúc đó chồng cô cũng đã qua đời, đưa các cháu về sống với ông ngoại. Toàn thể giáo hữu Sáo Bún mến phụctài năng nhân đức của ông, nên cử ông làm Trùm họ. Trong hoàn cảnh khó khăn thiếu linh mục, ông Trùm Phượng có nhiều cơ hội phục vụ cho dân Chúa. Nhiều trẻ em được ông rửa tội, nhiều người xin theo đạo do lời khuyên bảo của ông. Đặc biệt, ông rộng rãi tiếp các linh mục và thày giảng đến trú ngụ tại nhà mình. Nghe mọi người dự đoán trước cuộc tử đạo ông sẽ phải lãnh nhận, ông mỉm cười và tiếp tục làm việc bác ái như trước.

Ngày 02.01.1861, cha Hoan về Sáo Bún giúp mọi người chuẩn bị lễ Hiển Linh, ông trùm Phượng hân hoan mời cha về nhà mình. Không biết có ai tố giác không, mà ngay tối hôm sau, quân lính ùa đến vây làng. Cha Hoan lén ra bờ sông tìm cách trốn nhưng bị bắt. Sau đó, lính kéo đến nhà ông Trùm, rồi chia nhau lục soát khắp nhà. Khi tìm thấy áo lễ, chém lễ và ảnh tượng, lính liền bắt ông Phượng đưa về Đồng Hới cùng với cha Hoan và bảy giáo hữu khác nữa.

Tín trung đến cùng.

Dù cho quan quân áp dụng đủ cách thức để tra tấn xét khảo hết ngày này qua ngày khác, ông trùm Phượng và các bạn nhắc nhở nhau không khai điều gì làm hại đến những người còn lại. Ông nhận mình có mời cha Hoan đến nhà vì tang chứng quá rõ rệt, nhưng cương quyết không chịu bỏ đạo và không bước qua Thập Giá.

Ở dinh quan án có viên lục sự trẻ trẻ tuổi đem lòng yêu thương con gái ông Trùm, nên nói với ông: “Nếu gả con gái cho tôi, tôi hứa hết sức sẽ lo cho ông được tự do”. Ông đáp: “Không được đâu, trừ phi chính anh theo đạo. Tôi không gả con gái tôi cho người ngoại đạo, dù anh là ông ký hay quan đi nữa, tôi sợ nó không giữ được đức tin. Nếu vì lý do đó mà phải chết, tôi sẵn sàng”.

Ngày 25.05, bản án của triều đình đã về đến Đồng Hới. Ông phượng vui vẻ đi chào giã biệt các bạn tù, để sáng sớm hôm sau sẽ theo chân các lý hình ra pháp trường cùng với cha Hoan. Một người cầm bản án đi phía trước: “người này tên Nguyễn Văn Đắc, tức Phượng là tín đồ Gia Tô. Kẻ đã đang tâm bao che cho đạo trưởng Hoan. Vi phạm luật nhà nước là một trọng tội. Phải đem xử trảm tức khắc”.

Đến cửa thành, đoàn người dừng lại một lát. Thân nhân bạn hữu của hai chứng nhân đức tin đã được quan cho phép mang đến ít bánh trái để hai vị lót dạ, nhưng quân lính muốn kết thúc việc xử án cho sớm nên đánh đuổi họ. Đoàn người lại tiếp tục lên đường. Đến pháp trường, theo gương cha Hoan, ông Phượng cũng xin khỏi trói, rồi bình tĩnh qùy trên chiếc chiếu của mình, chắp tay lại cầu nguyện. Hai người con trai của chị Thủ, con gái của ông, tiến đến sát bên, vừa khóc vừa chào vĩnh biệt, nhưng ông can đảm an ủi họ. Sau đó lí hình đuổi tất cả họ ra xa. Ngay khi tiếng chiêng đầu nổi lên, đầu vị tử đạo đã rơi xuống, và linh hồn vị anh hùng đức tin về hưởng nhan Thiên Chúa muôn đời.

Đức Thánh Cha Piô X suy tôn ông Trùm Matthêu Nguyễn Văn Phượng lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.


Ngày 27 tháng 05
Thánh Augustinô Cantorbéry, (St. Augustine of Canterbury)
Giám mục

Ca nhập lễ các thánh giám mục có viết:” Ta sẽ cho xuất hiện một tư tế trung thành để phục vụ Ta, Người ấy sẽ hành động theo như lòng và ý muốn của Ta ( 1 Sm 2, 35 ). Thánh Augustinô là giám mục thành Cantorbéry nước Anh, đã được Chúa chọn lựa để củng cố lòng tin cho nhiều người Anh và để làm sáng danh Chúa.

MỘT VỊ GIÁM MỤC NHIỆT THÀNH và THÁNH THIỆN:

Thánh Augustinô là bề trên tu viện thánh Anrê ở Roma, nước Ý. Năm 597, Đức Giáo Hoàng Grêgoriô cả sai Ngài và 40 vị thừa sai khác đi truyền giáo bên nước Anh vì ánh sáng của Chúa Kitô, Tin Mừng của Ngài đã được rao giảng tại nước này ngay từ thế kỷ đầu, nhưng vì công giáo bị ảnh hưởng của ngẫu tượng giáo và sự xâm lăng của các sắc dân Saxon, đức tin của người công giáo hoàn toàn bị lu mờ và hầu như sắp tàn lụi. Với lòng nhiệt thành, đức tin sắc bén, sự hăng say loan báo Tin Mừng, thánh nhân đã đi rảo khắp các thành, các nơi, khôi phục, chấn chỉnh lại đức tin cho nhiều người,trong đó có cả quốc vươngÉthelbert và nhiều nhân vật tiếng tăm, cao cấp trong chính quyền. Các nơi thờ tự, các nhà nguyện, nhà thờ được mọc lên, khôi phục.Vì lòng tin, sự thánh thiện, tài lãnh đạo, thánh nhân đã được cất nhắc lên chức giám mục ngày 16 tháng 11 năm 597 và Ngài đã lập Tòa Giám Mục ở Cantorbéry. Thánh nhân sau đó còn được Đức Thánh Cha ủy thác thành lập hàng giáo phẩm nước Anh. Công việc nào cũng có sóng gió, cũng phải vác thập giá, thánh nhân đã phải chiến đấu mạnh mẽ với sự phân hóa, chia rẽ của nhóm truyền giáo cũ và mới. Tuy nhiên, thánh nhân vẫn luôn tin tưởng, phó thác vào Chúa và với sự kiên trì, lòng quảng đại, sự phấn đấu liên lỉ,lòng đạo đức, sự thánh thiện sẵn có, thánh nhân đã tin tưởng, can đảm phó thác vào Chúa quan phòng chở che, Ngài đã cầu nguyện liên lỉ, cầu nguyện không ngừng, ăn chay, hãm mình và dùng hành động thực tế, cụ thể để giải quyết vấn đề hơn là nói suông, nói ngoài môi miệng.

CHÚA THƯỞNG CÔNG THÁNH AUGUSTINÔ CANTORBÉRY:

Thánh Gioan viết :” Chúa nói: Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng Chính Thầy đã chọn anh em, để anh em ra đi, thu được kết quả, và kết quả anh em được lâu bền”( Ga 15, 16 ). Thánh nhân đã làm việc không biết mệt mỏi cho địa phận, cho Giáo Hội Anh Quốc, nhưng sức người có hạn, sau nhiều năm tận tụy với sứ mạng mục tử, Ngài đã ra đi về với Chúa trong bình an và thánh thiện vào ngày 26 tháng 5 năm 604. Với những nhân đức đã đi đến mức anh hùng, với bao nhiêu công lao và sự thánh thiện của Ngài, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã tuyên phong Ngài lên bậc hiển thánh. Thánh nhân đã nói như thánh Phêrô” Lạy Chúa, Chúa biết rõ mọi sự. Chúa biết con thương Chúa”( Ga 21, 17). Chúa đã đội mũ triều thiên vinh quang cho Ngài và Giáo Hội đã tôn vinh Ngài.

“Lạy Chúa, Chúa dùng lời giảng của thánh giám mục Augustinô để đem ánh sáng Tin Mừng đến các dân tộc Anh Quốc. Xin cho những kết quả do công khó của người làm ra tồn tại mãi trong Hội Thánh và sinh hoa trái dồi dào”( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Augustinô giám mục Cantorbéry ).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Ngày 27 tháng 05
Thánh Phaolô Hạnh
Giáo dân - (1827 - 1859)

Cây lúa trổ bông.

Nước Thiên Chúa ví như khi một người kia gieo giống xuống đất, dù người ấy ngủ hay thức,, ban đêm hay ban ngày hạt giống cứ nẩy mầm, lớn lên mà người ấy không biết. Tự dưng cây mọc mạ rồi trổ đòng đòng và thành những hạt klúa chắc nịch, cho đến khi mùa gặt tới” (Mc 4, 26-29).

Đoạn tin mừng trên đã ứn nghiệm trong cuộc đời thánh Phaolô Hạnh.

Cậu Hạnh đã chào đời tại Tân Triều, tỉnh Biên Hòa khoảng năm 1827. Lớn lên cậu cùng hai người anh đến Chợ Quán, Sài Gòn để buôn bán. Dư luận đồn đại về anh nhiều điều xấu. Trong nghề buôn bán, anh giao dịch với một số tay anh chị chuyên lường gạt, bắt chẹt những người cô thế cô thân. Hình như có thời anh đã từng cầm đầu một băng cướp.

Thế nhưng lời tin mừng anh tiếp nhận thời thơ ấu vẫn không ngừng nẩy nở lớn lên trong anh. Dù chính anh không hay biết, lới Chúa vẫn đâm bông và chờ lúc thuận tiện thì kết trái. Một lần kia, khi chứng kiến một thiếu phụ nghèo khổ bị đàn em bóc lột không thương tiếc, anh bỗng xúc động và ra tay can thiệp, anh dùng áp lực bắt chúng phải trả lại tất cả cho nạn nhân, dù biết trước thái độ hào hiệp ấy sẽ mang lại cho mình hậu qủa không may theo luật giang hồ. Bông lúa đã chín vàng chờ tay người thợ gặt.

Kitô hữu đến chết

Những người bị anh khuất phục tức giận tìm cách trả thù. Họ chọn giải pháp hèn hạ nhất “ném đá giấu tay”. Họ tố cáo anh là Kitô hữu, và gán cho anh tội tiếp tay với quân đội Pháp. Trước tòa án, anh không bao giờ nhận tội phản quốc, vì thực tế anh không làm. Nhưng khi quan hỏi: “Anh có phải là Kitô hữu không?” thì anh công nhận, và còn khẳng định rằng: “Sẽ là Kitô hữu cho đến chết”.

Suốt thời gian bị giam, các quan tìm mọi cách dụ dỗ anh bỏ đạo. Họ áp dụng những hình khổ dã man nhất đã được vua Tự Đức cho phép. Người ta căng thân thể anh ra đánh đòn, người ta dùng kìm nguội để kẹp vào dùi, và dùng những thanh sắt nung đỏ dí vào người, để bắt anh nhận tội đã vu oan và bước qua Thập Gía. Nhưng tất cả những cực hình tàn bạo đó không thể làm cho anh nản lòng thối chí. Anh không ngừng khẳng định một điều duy nhất: “Tôi là Kitô hữu, không bao giờ tôi chối đạo”.



Bông hoa ngát hương.

Ngày 28.05.1859, anh Hạnh bị trảm quyết tại Chí Hòa khi mới 32 tuổi. Thi thể vị tử đạo được mai táng ở Chợ Quán. Đức Thánh Cha Piô X đã suy tôn chứng nhân Phaolô Hạnh lên hàng Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Sử gia Rodriguez so sánh cuộc đời thánh Phaolô Hạnh với cuộc đời “CÁNH HOA TÍM NGÁT HƯƠNG”: (Martyrologio Oriental Tr. 253-255) “Có những hoa tím mọc dại bên đường, cho dến ngày có khách bộ hành đi ngang dẫm nát, nó mới tỏa hương thơm. Phaolô Hạnh quả là bông hoa bị che khuất bên vệ đường Giáo Hội, cho đến khi bị vò nát trong cuộc bách hại, mới tỏa ra hương thơm ngát khiến chúng ta phải lâng lâng ngây ngất”.

“Giữa một đô thị ô nhiễm đầy bon chen thấp hèn, những gian dối bất công và những nỗi cơ cực, thì mọi người trông đợi những cánh hoa báo hiệu mùa Xuân mới đang đến, đem lại bầu khí trong lành hơn. Cánh hoa Phaolô Hạnh đã tỏa hương nhờ sức mạnh Thần Linh làm cho những ai chán ghét mùa Đông tội lỗi, lạnh giá, và khắc sâu vào tâm khảm hình ảnh mùa Xuân vĩnh cửu. sẽ thấy trong mình xuất hiện một niềm vui bí ẩn và hy vọng tràn trề vào tương lai.”
 

langvuon

khoai nướng
Ðề: Lịch Phụng Vụ tháng 5/2011

Chúa Nhật 29 Tr
Chúa Nhật thứ VI Mùa Phục Sinh
Cv 8: 5-8, 14-17 Tv 66: 1-3, 4-5, 6-7, 16, 20 1Pr 3: 15-18 Ga 14: 15-21

Thứ Hai 30 Tr
Thứ Hai sau Chúa Nhật thứ VI Mùa Phục Sinh
Cv 16: 11-15 Tv 149: 1-2, 3-4, 5-6, 9 Ga 15: 26; 16: 4

Thứ Ba 31 Tr
Thứ Ba sau Chúa Nhật thứ VI Mùa Phục Sinh
Lễ kính Đức Mẹ thăm viếng Bà Thánh Isave
Cv 16: 22-34 Tv 138: 1-2, 2-3, 7-8 Ga 16: 5-11

Ngày 31 tháng 05
ĐỨC MARIA THĂM VIẾNG BÀ ÊLISABÉT

Cao điểm của tháng 5, tháng hoa dâng kính Mẹ Maria trong ngày cuối của mùa hoa, Giáo Hội mừng kính lễ Mẹ đi thăm viếng bà chị họ Isave. Sự hiện diện của Mẹ Maria củng cố niềm tin của bà Isave và nói lên Mẹ luôn phù trợ loài người, nâng đỡ con người. Sự có mặt của Mẹ cũng là niềm an ủi, vỗ về thánh Gioan Tẩy giả đang trong lòng bà Êlisabét.

MARIA VỘI VÃ LÊN ĐƯỜNG ĐI THĂM NGƯỜI CHỊ HỌ ISAVE:

Đức Trinh Nữ Maria sau khi đã chấp nhận tuân theo ý Chúa:” Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”( Lc 1, 38 ) và rồi thánh sử Luca lại viết tiếp:” Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi,vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Isave” ( Lc 1, 39-40 ).Đây là cuộc viếng thăm hết sức quan trọng trong lịch sử ơn cứu độ Mẹ Maria đã dành cơ hội rất đặc biệt để viếng thăm, chia sẻ niềm vui về sự hiện diện của Chúa Giêsu, con Thiên Chúa mà Mẹ vừa mới cưu mang Ngài bởi phép Chúa Thánh Thần và bà chị họ cũng đang thai nghén thánh Gioan Tẩy giả trong cung lòng của mình. Sự vội vã của Mẹ Maria khi lên đường, thăm hỏi, cảm thông và chia sẻ niềm hạnh phúc của ơn cứu độ nói lên niềm vui khôn tả khiến Gioan Tẩy giả nhảy mừng trong lòng bà Isave, còn bà Isave cảm nghiệm sâu xa Chúa đang hiện diện qua con người của Mẹ Maria( Lc 1, 41-44 ).Bà Isave khen ngợi Mẹ Maria qua tác động của Chúa Thánh Thần( Lc 1, 45 ). Và như thế, sự có mặt của Mẹ Maria lúc này và ở đây( hic et nunc ) khi mang Chúa trong lòng diễn tả niềm vui phục vụ. Một niềm hân hoan, chan chứa ơn cứu độ của một người Mẹ luôn muốn chia sẻ cho mọi người, chứ không giữ riêng cho mình. Điều này chỉ ra rằng Mẹ Maria rất can đảm, rất quả cảm, Mẹ luôn từ bỏ, quên mình để người khác được vui, được hạnh phúc. Mẹ ca ngợi Thiên Chúa vì lòng Mẹ quả luôn thuộc về Ngài, lời kinh Magnificat là lời tạ ơn sâu thẩm và không bao giờ nguôi ngoai của Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã ý thức thân phận đơn mọn, yếu hèn của mình, sự khiêm nhượng và đơn sơ của Mẹ đã khiến Mẹ được lòng Thiên Chúa và được Chúa đoái thương(Lc 1, 46-55 ).

MARIA ĐI THĂM VIẾNG BÀ ISAVE LÀ LỜI THÚC BÁCH CON

NGƯỜI: Biến cố Mẹ Maria đi thăm viếng bà chị họ Isave là lời mời gọi con người ý thức thân phận của mình. Được làm con của Chúa, con người đã lãnh nhận biết bao hồng ân của Ngài. Ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho con người không dừng lại ở một dân tộc, một quê hương, một đất nước, một nhóm người. Nhưng ơn cứu rỗi Chúa ban là quà tặng quí giá cho mọi người. Mọi người đều được mời gọi chóng vánh chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho mọi người. Như Mẹ Maria, con người đã được hạnh phúc mang Chúa trong lòng, sứ mạng của con người cũng phải mau mắn chia sẻ hạnh phúc và giới thiệu Chúa Giêsu cho những người khác. Hội Thánh lập lễ này để kỷ niệm cuộc hội ngộ đầu tiên của Đấng Cứu Thế và vị ngôn sứ Gioan Tẩy giả. Thánh Bonaventura khuyến khích kính lễ này bên Tây phương và Giáo Hội cổ võ mừng lễ này vào năm 1389 trong toàn Hội Thánh “Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, ngay khi còn cưu mang Thánh Tử Giêsu, Thánh Mẫu Maria đã được Cha soi sáng và Người đã đi thăm bà Êlisabét. Xin cho chúng con hằng mau mắn nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn, để được cùng Đức Maria ngợi khen Cha muôn đời “( Ca nhập lễ, lễ Đức Maria thăm viếng bà Êlisabét ).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

nguồn: FatimaCompany
 

langvuon

khoai nướng
Thứ Tư 01 Đ
Thứ Tư sau Chúa Nhật thứ VI Mùa Phục Sinh
Lễ nhớ Thánh Justin, Tđ
Cv 17: 15, 22; 18: 1 Tv 148: 1-2, 11-12, 12-14, 14 Ga 16: 12-15
Kính thánh tử đạo Giuse Túc, Giáo Dân

Thứ Năm 02 Tr
Thứ Năm Đầu Tháng. Cầu cho các linh mục
LỄ ĐỨC CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI
Thánh Marcellinus và Phêrô, Tđ
Cv 1: 1-11 Tv 47: 2-3, 6-7, 8-9 Ep 1: 17-23 Mt 28: 16-20
Kính thánh tử đạo Đaminh Ninh, Giáo dân

Ngày 01 tháng 06
Thánh Justin Tử Ðạo
(c. 165)

Thánh Justin là một giáo dân và triết gia Kitô Giáo đầu tiên đã có những sáng tác vĩ đại bảo vệ đức tin Kitô Giáo. Nhờ các văn bản ấy, chúng ta biết về cuộc đời ngài.

Thánh Justin sinh ở Flavia Neapolis, Samaria khoảng năm 100, cha mẹ ngài là người ngoại giáo, gốc Hy Lạp. Ngài được giáo dục kỹ lưỡng và đặc biệt yêu thích khoa hùng biện, thi ca và sử học. Khi còn trai trẻ, ngài bị thu hút bởi triết thuyết Plato. Tuy nhiên, ngài nhận thấy chỉ có Kitô Giáo mới trả lời được những thắc mắc lớn lao về đời sống và sự hiện hữu.

Qua những tài liệu Kitô Giáo cũng như việc quan sát các gương anh hùng tử đạo, Thánh Justin đã trở lại Kitô Giáo khi ngài 30 tuổi. Ngài tiếp tục mặc áo choàng của các triết gia thời bấy giờ, và trở nên triết gia Kitô Giáo đầu tiên. Ngài tổng hợp Kitô Giáo với các yếu tính đặc sắc nhất của triết lý Hy lạp. Theo quan điểm của ngài, triết lý là một nhà mô phạm của Ðức Kitô, một nhà giáo dục dẫn đưa người ta đến với Ðức Kitô.

Thánh Justin nổi tiếng là một người biện giáo (apologist) thời bấy giờ. Ngài đi đây đó và tranh luận với các người ngoại giáo, lạc giáo và Do Thái Giáo. Khi người Kitô tiếp tục bị bách hại bởi nhà cầm quyền, ngài đã công khai bảo vệ Kitô Giáo qua lời giảng dạy cũng như văn bản. Trong các sáng tác của ngài, hiện nay chúng ta vẫn còn giữ được hai bản văn gửi cho hoàng đế Rôma và cho Thượng Viện.

Sau cùng ngài bị bắt và bị đưa ra trước quan tổng trấn Rôma là Rusticus. Khi được yêu cầu thờ cúng tà thần, Thánh Justin trả lời, "Người có suy nghĩ đúng đắn không chối bỏ sự thật vì sự giả trá."

Thánh Justin bị chém đầu ở Rôma năm 165.
...................................................................................................
Ngày 01 tháng 06
Thánh Giuse TÚC
Giáo dân - (1843 - 1862)

Vì sao lấp lánh.

Sử liệu về thánh Giuse Túc có sự khác biệt nhau khá xa về số tuổi tác của ngài khi bị bắt và tử đạo. Một số sử liệu ghi rằng: Khi bị bắt và tử đạo, cậu Giuse Túc chỉ mới chín tuổi. Sử liệu khác lại cho là 19 tuổi hoặc 21 tuổi. Tuy nhiên khi xem xét kỹ các chi tiết về bắt bớ, tù đáy và xử án thánh nhân, chúng tôi nghĩ rằng dù dã man, các quan cũng không thể xử quá tàn bạo như thế với một cậu bé chỉ mới chín tuổi đầu. Việc tra tấn hành hạ của các quan phải dành cho một thanh niên đã khôn lớn, hơn là cho một em nhỏ còn thơ dại.

Vâng, giữa tuổi thanh niên, tuổi của những ước mơ và hy vọng, tuổi của hăng say và nhiệt thành, tuổi mà sự chăm sóc và dưỡng dục đòi hỏi biết bao công phu đang chín dần, để trở thành người hữu ích cho gia đình và xã hội. Với cái tuổi thanh xuân đáng quý ấy, Giuse Túc đã chiếu sáng như một vì sao.

Giuse Túc sinh năm 1843 tại họ đạo Hoàng Xá, xứ Ngọc Đồng, tỉnh Hưng Yên (nay là Hải Hưng). Cha là Giuse Cẩn và mẹ là bà Trí. Trong cái nôi của gia đình nông dân đạo đức ấy, cậu Giuse Túc đã sinh ra và lớn lên với cuộc sống cần cù, hiền hòa như hầu hết mọi thanh niên Việt Nam ngày ngày miệt mài với nương ruộng. Nhưng thân phụ cậu không muốn cậu tiếp tục với công việc ruộng nương này, đã khuyến khích và lo liệu cho cậu theo nghiệp khoa cử. Cậu Túc vâng lời thân phụ chăm chỉ học chữ Nôm.

Những cuộc bách hại đạ của vua Tự Đức dai dẳng ngày càng khốc liệt hơn. Vì với chiếu chỉ Phân sáp ngày 05.08.1861, thì không một người nào, không một căn nhà nào của người công Giáo được bình yên. Biết bao người dân hiền hòa vô tội bị đạo đày, bị tàn sát và bị ghép cho những tội trạng mà họ không bao giờ nghĩ đến.

Gian truân thử đức.

Anh Giuse Túc bị bắt vào đầu năm 1862 khi đang ở độ tuổi thanh xuân tươi đẹp: tuổi 19. Anh bị tạm giam ít ngày ở huyện rồi bị giải về tỉnh. Sau đó, anh bị biệt giám 4 tháng tại Đông Khê, phủ Khoái Châu. Ban ngày phải mang gông nặng, ban đêm chân bị cùm xích. Dù vậy anh Túc vẫn trung kiên với đức tin chân chính. Nhiều bạn bè cùng bị giam với anh như Phêrô Kiên (18 tuổi), Phêrô Ngân (15 tuổi), Phêrô Lương (20 tuổi) cũng được kể vào số tôi tớ Chúa đang được chuẩn bị suy tôn Chân Phước. Các anh thường gặp nhau đọc kinh chung và an ủi khích lệ nhau can đảm đến cùng.

Một số thân hữu lo lót quân lính để tạo cơ hội cho anh chốn khỏi ngục, nhưng anh nói: “Tôi sẽ không trốn bất cứ cách nào, vì nếu tôi trốn sẽ làm khổ người khác. Chúa muốn thế nào, tôi xin nhận như thế”.

Khi một bạn tù tỏ vẻ lo âu không biết khi bị xử, người nhà có được tin để lãnh xác hay không anh Túc bình thản bày tỏ tâm trạng của mình: “Tôi an tâm, không lo lắng gì cả. Nếu Thiên Chúa cho tôi đổ máu vì đạo, tôi tin chắc sẽ được về trời. Còn thân xác này chôn được thì chôn, bằng không chôn được thì thôi.

Theo lá thư đề ngày 02.08.1862, cha Estévez Nam cho chúng ta biết tình hình ở tỉnh Hưng Yên: “Trong tỉnh Hưng Yên, các quan còn giữ tợn hơn. Cuối tháng 5 rất nhiều giáo hữu bị dẫn lên tỉnh. Ngày 01.06, các quan giết 100 người, hôm sau giết 600, ngày mùng 3 giết nhiều hơn nữa. Các làng ngoại giáo được lệnh giết hết các tù nhân có đạo, và họ đã triệt để thi hành, nên tôi không biết được con số phải chết trong ký này.” (3).

Cuối tháng 5 năm đó, anh túc bị giải về Hưng Yên. Sau những lời dụ dỗ, dọa nạt và tra khảo nhiều lần không làm nay chuyển được lòng tin sắt đá của anh, các quan nhất trí kết án trảm quyết anh.

Khi lập án phong thánh cho anh Giuse Túc, một số giáo dân hiên diện trong cuộc tử đạo đã làm chứng, trong đó, ông Đaminh Hưng kể lại rằng: “Tôi đi theo cậu Túc ra tới pháp trường. cậu sốt sắng cầu nguyện và luôn kêu tên cực thánh Chúa Giêsu. Sau khi cậu bị xử chém đầu, tôi đã mai táng thi thể cậu rất tử tế”. Bà Maria Linh kể lại bà đã nhìn thấy đầu của vị tôi tớ Chúa bị quân lính tung lên cao cho quan thấy, để minh chứng với quan là họ đã triệt để thi hành mệnh lệnh. Hôm đó là ngày 01.06.1862. Thi hài anh Giuse Túc, người chiến sĩ đức tin được chôn tại chỗ, sau được cải táng và đem về nhà thờ xứ Ngọc Đồng, tỉnh Hưng yên.

Ngày 29.04.1951, Đức Thánh cha Piô XII suy tôn anh Giuse Túc lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.


Ngày 02 tháng 06
Thánh Marcellinus và Phêrô
(c. 304)

Mặc dù chúng không biết gì nhiều về hai vị tử đạo dưới thời Diocletian này, nhưng chắc chắn rằng giáo hội thời tiên khởi đã sùng kính hai vị. Chứng cớ của sự tôn kính ấy là đền thờ mà hoàng đế Constantine đã cho xây trên mộ của các ngài, và tên của các ngài được nhắc đến trong Lời Nguyện Thánh Thể I.

Thánh Giáo Hoàng Damasus nói rằng ngài nghe biết câu chuyện về hai vị tử đạo từ người đao phủ mà sau đó người này đã trở lại Kitô Giáo.

Marcellinus là một linh mục, còn Phêrô là người trừ tà, cả hai từ trần năm 304. Theo truyền thuyết về sự tử đạo của các ngài, cả hai là người Rôma và coi sự tù đầy như một cơ hội để rao giảng và hoán cải những lính canh tù và gia đình của họ. Truyền thuyết cũng nói rằng cả hai bị chặt đầu ở trong rừng để người Kitô không có cơ hội chôn cất và tôn kính thi thể của các ngài. Tuy nhiên, hai phụ nữ đã tìm thấy các thi thể ấy và họ đã chôn cất tử tế.

Lời Bàn

Tại sao các vị này được nhắc đến trong lời nguyện Thánh Thể và có ngày lễ tôn kính riêng, dù rằng hầu như chúng ta không biết gì về họ? Có lẽ vì Giáo Hội tôn trọng ký ức còn ghi nhận được trong lịch sử. Và đã một lần, các ngài là động lực khuyến khích toàn thể Giáo Hội. Họ đã thể hiện một bước đức tin tột bực.

Lời Trích

Giáo Hội luôn tin rằng các tông đồ, và các vị tử đạo của Ðức Kitô là những người đã đem lại bằng chứng đức tin và đức ái cao cả qua việc đổ máu của họ, thực sự kết hợp chặt chẽ với chúng ta trong Ðức Kitô" (Hiến Chương về Giáo Hội, 50).


Ngày 02 tháng 06
Thánh Đaminh NINH
Nông dân - (1841 - 1862)

Đức tin mạnh hơn sự chết

“Giác quan khiếp sợ trước những hiểm nguy, những cái sẽ đem đến đau thương và chết chóc. Nhưng với đức tin mạnh mẽ và sống động, giác quan không còn e sợ gì cả, nó biết trước tất cả những gì sẽ xảy đến đều do ý Chúa, và những điều Chúa muốn chỉ sinh ích mà thôi. Như vật, tấc cả những gì sẽ đến vui hay buồn, sức khỏe hay bệnh tật, sống hay chết đều được nó vui nhận trước và dĩ nhiên không còn biết sợ gì”.

Tư tưởng trên đây đã được cha Charles de Foucault, vị khai sáng dòng tiểu đệ trình bày, diễn tả thật chính xác về các vị thánh tử đạo Việt Nam. Các vị biết trước những gian nan và đau khổ sẽ phải chịu, nhưng tin vào Thiên Chúa, các ngài không chút nhát sợ. Sự hiên ngang can trường của các ngài trước bạo lực trần gian thật đáng được muôn đời ca tụng. thánh Đminh Ninh là một trong số các vị oai hùng đó.

Năm 1841, làng Trung Linh, tỉnh Nam Định, thuộc giáo phận Trung (nay là giáo phận Bùi Chu) đón nhận cậu bé Đaminh Ninh chào đời. Làng Trung Linh cũng là xứ Trung Linh, là một làng thuần Công Giáo. Trong giai đoạn đầu công cuộc truyền giáo tại miền bắc Việt Nam, Trung Linh là nơi đặt Toa Giám Mục và có trường đào tạo chủng sinh.

Tuy là một nông dân chất phác, cần cù anh Ninh vẫn cố gắng học thêm chữ Nôm, hy vọng tương lai ngày mai tươi sáng hơn. Anh Ninh được dân làng khen là một Kitô hữu tốt lành, đạo đức. Duy có điều đáng buồn đối với anh, đó là cha mẹ đã ép anh phải kết hôn với một thiếu nữ trong làng. Vì không muốn làm buồn lòng cha mẹ, anh đành miễn cưỡng chấp nhận cuộc hôn nhân này. Nhưng sau ngày cuới, anh vẫn sống như người độc thân, chứ không chung sống với người thiếu nữ đó. Tuy nhiên, anh vẫn cư xử hòa nhã với nàng. Và sau anh nhận thấy mình có phần lỗi, nên đã cố gắng đền bù bằng cuộc sống thánh thiện, nhất là can đảm chấp nhận mọi đau khổ, cực hình vì đức tin và vì lòng mến Chúa.

Chiếu chỉ phân sáp ban hành ngày 05.08.1861 của vua Tự Đức được áp dụng triệt để tại làng Nam Định. Nếu nhiều nơi trước khi bị phân sáp, giáo hữu còn được bán nhà lấy tiền chi tiêu thì ở đây họ bị bắt, bị trói từng năm người một, và chỉ được đem theo mấy nắm cơm đủ ăn trong hai ngày ngắn ngủi.

Thanh niên can trường.

Năm 1862, anh Ninh vừa được 21 tuổi. Anh bị bắt cùng một số giáo hữu khác, và bị giam nhiều trại tù với những lời dụ dỗ, đe dọa, tra tấn để làm cho các tôi tớ Thiên Chúa khiếp sợ mà chối bỏ đức tin. Quan đã dùng nhiều lời hứa hẹn và đe dọa bắt anh Ninh phải chà đạp Thánh Giá nhưng anh can đảm trả lời:

“Nếu làm con cái không được phép sỉ nhục cha mẹ mình thì làm sao người Kitô hữu được phép chà đạp hình ảnh của Đấng tạo thánh trời đất ? Xin quan cứ thi hành điều quan muốn, còn tôi không bao giờ xúc phạm Thánh Giá Chúa đâu”

Trong án phong Chân Phước cho anh Đaminh Ninh, bà Rôsa Hun làm chứng rằng: “Tôi thấy anh bị nhốt tù tại Đông Vi, tuy mang gông cùm xiềng xích nặng nề, anh vẫn vui vẻ tươi cười”.

Trước lòng can đảm, khẳng khái của anh Đaminh Ninh, Tổng đốc Nguyễn Đình Tân đã kết án trảm quyết. Và bản án được thi hành ngày 02.06.1862 tại pháp trường An Triêm, tỉnh Nam Định.

Ngày 29.04.1951 tại giáo đô Vatican, trong Vương Cung Thánh Đường Phêrô, anh Đaminh Ninh, người thanh niên nông dân nghèo, nhưng cũng là Kitô hữu can trường đã được Đức cha Piô XII suy tôn lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.


LỄ ĐỨC CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI
CHÚA THĂNG THIÊN

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô,

Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh".
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời rao giảng bằng những phép lạ kèm theo.

Lễ Chúa Chúa Giêsu Lên Trời hay còn gọi là Lễ Thăng Thiên, có nghĩa là Chúa Giêsu trở về nơi Ngài hằng ở cùng Đức Chúa Cha. Thánh Gioan viết rằng: Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời và Ngôi Lời hằng ở cùng Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa (Gioan 1:1). Chúa Giêsu về trời đánh dấu sự kết thúc nhiệm vụ của Chúa trên trần gian và trở về trong vinh quang với Cha của Ngài.

Với các Tông đồ, thời gian huấn luyện đã mãn. Các tông đồ được sai đi làm nhân chứng khắp mọi miền. Chúa phán: Hãy đi giảng dạy muôn dân, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ, ai không tin sẽ bị luận phạt. Khi Chúa Giêsu rời khỏi các Tông đồ, họ bỡ ngỡ ngước nhìn lên trời. Giờ đây, sứ mệnh của các ông không còn là nhìn về trời chờ đợi nhưng là ra đi làm nhân chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Chúa Giêsu không còn hiện diện trực tiếp và thường xuyên với các môn đệ như trước. Tuy thế, Chúa không để các môn đệ mồ côi mà sẽ sai Thánh Thần xuống dạy bảo các ông tất cả mọi sự thật.

Truyện tưởng tượng kể rằng ma qủy là thầy của gian dối và lừa đảo. Ma qủy cũng tìm cách lẻn vào thiên đàng và ngụy trang hình ảnh Chúa sống lại. Qủy cùng một đoàn ngụy trang làm các thiên thần, cũng xướng ca: Hãy ngẩng đầu lên, hỡi ngàn thu, hãy mở rộng cửa để Vua vinh quang bước vào. Các thiên thần chầu quanh Thiên Chúa nhìn xuống, nghĩ rằng Vua vinh hiển đã trở về từ cõi chết. Họ la to vui mừng: Vua vinh hiển là ai? Qủy dữ lộ mặt nạ bởi một lầm lỗi. Qủy giang cánh tay và nói: Chính là Ta đây. Thiên thần lập tức đóng cửa thiên đàng và từ chối không tiếp nhận. Thiên thần nhận ra ngay qủy giả bởi vì qủy dữ không có vết đinh nơi lòng bàn tay. Qủy dữ không có vết thương của tình yêu và không trả giá cho tình yêu.

Chúa về trời để dọn chỗ cho chúng ta. Chúng ta hãy ra đi làm nhân chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta hãy cố gắng đi theo Chúa và vác thánh giá theo chân Chúa mỗi ngày. Không có thánh giá sẽ không có vinh quang. Không có sự chết sẽ không có phục sinh. Chúa đã đi qua con đường thánh giá và Chúa đã sống lại hiển vinh. Giờ đây Chúa ngự bên hữu Chúa Cha hằng có đời đời. Lạy Chúa, xin cho chúng con đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa Kitô Sống Lại. Ngày sau, Chúa sẽ đón nhận chúng ta vào chung hưởng hạnh phúc muôn đời bên Chúa.

FatimaCompany.com
 

langvuon

khoai nướng
Ðề: Lịch Phụng Vụ 6/2011

Thứ Sáu 03 Đ
Thứ Sáu Đầu Tháng. Đền tạ Trái Tim Chúa Giêsu, mis.imp
Lễ nhớ Thánh Charles Lwanga và các bạn tử đạo
Cv 18: 9-18 Tv 47: 2-3, 4-5, 6-7 Ga 16: 20-23

Thứ Bảy 04 Tr
Thứ Bảy Đầu Tháng. Đền tạ Trái Tim Đức Mẹ, mis.imp
Cv 18: 23-28 Tv 47: 2-3, 8-9, 10 Ga 16: 23-28

Chúa Nhật 05 Tr
Chúa Nhật thứ VII Mùa Phục Sinh
Lễ nhớ Thánh Boniface, Gmtđ
Cv 1: 12-14 Tv 27: 1, 4, 7-8 1 1Pr 4: 13-16 Ga 17: 1-11
Kính thánh tử đạo Luca Vũ Bá Loan, Lm, Đaminh Toại, ngư phủ, Đaminh Huyên, ngư phủ

Ngày 03 tháng 06
THÁNH CARÔLÔ LWANGA và CÁC BẠN TỬ ĐẠO

“ Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc, dành sẵn cho các ngươi, ngay từ lúc tạo thành trời đất”( Mt 25, 34 ).Thánh Carôlô Lwanga và các bạn tử đạo đã làm cho Hội Thánh Ouganda càng lúc càng phát triển. Các Ngài xứng đáng lãnh nhận triều thiên trên trời.

HỘI THÁNH OUGANDA ĐƯỢC LỚN LÊN NHỜ MÁU CÁC THÁNH CARÔLÔ LWANGA và CÁC BẠN TỬ ĐẠO: “ Máu của các Kitô hữu làm nẩy sinh Giáo Hội” hay “ Máu vị tử đạo là hạt giống của các Kitô hữu”. Thánh Carôlô Lwanga luôn khích lệ, động viên các bạn kiên cường, tuyên xưng danh Chúa dẫu có phải hy sinh tới cả mạng sống của mình. Các thánh tử đạo Ouganda thuộc mọi lứa tuổi: có vị như Matthias mới lên 5 tuổi, thánh Kitô mới có 13 và các vị khác lớn hơn từ 16 tới 24 tuổi đời. Các Ngài đã hy sinh thí mạng sống của mình, đã đi con đường đức tin, con đường thập giá, con đường tình yêu như Thầy chí thánh Giêsu, những hình phạt như ném đá, voi dày, đòn vọt, gông cùm, xiềng xích không làm chùn bước các Ngài. Các Ngài đã cảm nghiệm sâu xa lời của Chúa:”Tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác, ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá”( 1Co 2, 2 ) . Hai mươi hai thánh tử đạo Ouganda trong đó có bốn vị chưa được chịu phép rửa tội, thánh Carôlô đã động viên, dậy dỗ và rửa tội cho họ trước khi các Ngài được phúc tử đạo. Hội Thánh Ouganda chỉ thực sự được phát triển và lớn mạnh nhờ máu của các vị tử đạo mà Giáo Hội mừng kính hôm nay.

CHÚA THƯỞNG CÔNG CÁC NGÀI:

Cảm nghiệm sâu xa lời sách khải huyền:” Ai thắng, Ta sẽ cho ăn quả cây sự sống, trồng ở trên thiên đàng của Thiên Chúa”( Kh 2, 7 ). Thánh Carôlô Lwanga và hai mươi mốt bạn được phúc tử đạo, đã lãnh triều thiên nước trời. Chúa thưởng công các Ngài, Giáo Hội trần thế tôn vinh các Ngài. “Lạy Chúa, Chúa đã cho máu tử đạo làm nẩy sinh thêm nhiều Kitô hữu. Xin cho máu của thánh Carôlô Lwanga và các bạn đã tưới xuống cánh đồng Hội Thánh cũng đem lại một mùa lúa dồi dào”( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Carôlô Lwanga và các bạn tử đạo ).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT


Ngày 05 tháng 06
Thánh Boniface

(672-754)

Thánh Boniface, vị tông đồ của người Ðức, là một đan sĩ người Anh thuộc Dòng Biển Ðức, đã hy sinh vinh dự khi được chọn làm đan viện trưởng để tận hiến cuộc đời trong việc hoán cải các sắc tộc ở Ðức. Ngài có hai đặc tính nổi bật: Kitô Giáo chính truyền và trung thành với đức giáo hoàng ở Rôma.

Thánh Boniface, tên thật là Wilfrith, sinh ở Anh Quốc. Ngay khi còn nhỏ, hình ảnh cao quý của các đan sĩ truyền giáo đã in sâu trong tâm khảm của ngài, do đó, khi bảy tuổi ngài đã nài nỉ xin theo học trường dòng, dù rằng cha ngài mong muốn cho con một sự nghiệp ở ngoài đời.

Lớn lên, ngài làm giám đốc một trường học ở Nursling, Winchester, tại đây ngài là người đầu tiên viết về văn phạm Latinh bằng tiếng Anh, cũng như sáng tác nhiều bài diễn giảng được nhiều người sao chép và phổ biến.

Năm ba mươi tuổi, ngài được thụ phong linh mục và đi rao giảng ở Friesland (thuộc Hòa Lan bây giờ), nhưng không bao lâu ngài phải trở về Nursling vì cuộc chiến giữa vua ngoại giáo của Friesland và Charles Martel của Pháp.

Sau cái chết của đan viện trưởng, các đan sĩ ở Nursling tìm cách giữ chân ngài bằng cách bầu ngài làm đan viện trưởng, nhưng ngài đã từ chối để tận hiến cho công cuộc truyền giáo.

Năm 718, ngài đến Rôma để gặp Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô II, là người sai ngài đi truyền giáo cho người Ðức ở Hesse và Bavaria.

Ở Hesse, trước sự hiện diện của đám đông người ngoại giáo rất tin dị đoan, ngài đã chặt cây Sồi Thần Linh ở Geismar to lớn và già nua, được dân ngoại dâng cúng cho thần Thor. Người ta kể rằng chỉ sau vài nhát rìu, cây sồi đã lung lay và sụp đổ, tách ra làm bốn cho thấy sự mục nát bên trong. Ðó là khởi đầu của một công cuộc truyền giáo rất thành công của Thánh Boniface và cũng là hạt giống đức tin cho một giáo hội đầy sinh lực ở Ðức, mà sau này Thánh Boniface được tấn phong làm giám mục ở đây. Ngài xin các Kitô Hữu ở Anh hỗ trợ công cuộc truyền giáo của ngài và họ đã đáp ứng với tiền bạc, sách vở, vật liệu, và nhất là thường xuyên cung các các đan sĩ để giúp đỡ ngài trong việc giảng dạy.

Thánh Boniface không chỉ hạn chế hoạt động ở nước Ðức. Ngài còn giúp hình thành sự tương giao giữa Ðức Giáo Hoàng và các vua ở Ý cũng như ở Pháp. Ngài thúc giục các thái tử kế vị vua Charles của Pháp triệu tập công đồng để cải tổ giáo hội trong các phần đất của họ, là nơi chức giám mục được bán cho những người trả giá cao nhất.

Ngài không bao giờ quên sự thất bại ở Friesland, do đó khi về già, ngài từ chức giám mục và trở về hoạt động ở đây với sự thành công đáng kể. Vào một ngày trong tháng Sáu năm 754, khi ngài đang chuẩn bị cho người Friesland chịu phép Thêm Sức thì tất cả bị tấn công và bị giết chết bởi các chiến sĩ ngoại giáo.


Ngày 05 tháng 06
Thánh Luca Vũ Bá Loan
Linh mục - ( 1756 - 1840 )

Truyện tử đạo Thánh Luca Loan, vị liên trưởng trong số 117 thánh tiên khởi Việt Nam (84 tuổi), là một trong những bằng chứng cụ thể nhất về sự phi lý của các bản án tử đạo. Ngài đã bị giết chỉ do án lệnh của triều đình, trong khi tại địa phương, mọi người đều kính yêu vị linh mục 84 tuổi, râu dài, tóc bạc, hiền lành, đôn hậu. Từ quan huyện, quan tòa đến lính ngục, tất cả đều thấy ngài đáng tuổi cha ông mình, nên xưng hô bằng “Cụ', và còn đối xử nhân đạo với ngài: Gần năm tháng tù không một đòn roi, không phải cùm gông. Ngày xử tử, hai người lính tình nguyện cáng cha ra pháp trường. Cả mười lý hình được lệnh chém đầu cha đều bỏ trốn dù biết sẽ bị phạt, và viên đao phủ thứ mười một chỉ dám thi hành phận sự sau khi đã xin lỗi, và nói rằng mình bị bó buộc miễn cưỡng thôi.

Đời linh mục ướp nồng bằng lời nguyện

Luca Vũ Bá Loan sinh năm 1756 ở họ Bút Quai, thuộc xứ Bút Đông, giáo phận Tây Đàng Ngoài. Từ thiếu niên, cậu đã dâng mình cho Chúa, rồi tu học ở Phú Đa và Kẻ bào. Sau khi thụ phong linh mục, cha Loan đến giúp xứ Nam Sang sáu tháng, rồi về giúp cha già Liêm xứ Kẻ Vồi. Năm 1828, khi Đức cha Longer Gia chia xứ Kẻ Vồi làm hai thì cha Loan nhận xứ mơi là Kẻ Sở cho đến ngày bị bắt. Trong nhiệm vụ linh mục, những người biết cha đều học được nơi cha một mẫu gương sáng ngời về các nhân đức. Đặc biệt là lòng yêu mến Chúa, nhiệt tâm phục vụ các linh hồn và nếp sông thanh bạch.

Cha Loan chuyên chú nhiều trong việc giảng dạy. Vào mùa Chay, mỗi ngày cha giảng ba lần. Bài giảng của cha ngắn gọn, đơn sơ dễ hiểu, nhưng rất thực tế với những chỉ dẫn áp dụng cụ thể trong cuộc sống. Cha ít dùng lý luận, cha nói bằng kinh nghiệm bản thân mình về Đấng cha đã gặp gỡ thực sự trong kinh nguyện và thánh lễ.

Khi cầu nguyện cha như xuất thần, quyên hết mọi truyện chung quanh, dù ai gây tiếng đọâng sát bên cũng không làm cha gián đoạn cuộc tiếp xúc với Đấng linh thiêng được. Hầu như cha không bỏ dâng lễ bao giờ. Thánh lễ cha cử hành có màu sắc trang nghiêm khoan thai, cung kính đăïc biệt. Một thày giảng góp ý xin cha dâng lễ nhanh lên như các linh mục khác. Cha giải thích: “Không được con ạ. Lễ Misa là việc cao trọng nhất trên trần gian. Không có gì đáng để chúng ta phải cử hành thánh lễ cách vội vã cả. Việc thờ phượng Chúa cần phải làm cho trang nghiêm sốt sắng”.

Và thánh lễ của cha chưa kết thúc ở lời chúc bình an, cha thường quỳ lại lâu giờ trước Thánh Thể để tạ ơn Chúa.

Cha Loan đã thưa gì với Chúa trong giờ kinh nguyện? Có Chúa mới biết được. Phải chăng cha xin Chúa dạy những gì phải giảng, hay là cầu nguyện cho tín hữu trong xứ, cầu nguyện cho Giáo Hội, cho đồng bào? Có điều chắc chắn: song song với kinh nguyện đó, cha thường xuyên đến thăm những người nghèo khó bệnh tật, cha tận tâm nuôi dạy một vài em hiền lành nhanh nhẹn để chuẩn bị linh mục cho tương lai, và cha nhiệt thành hướng dẫn giúp đỡ nhiều tín hữu sống nhân ái với mọi người, dú có đạo hay không.

Một đặc điểm khác nơi cha Loan là lòng khiêm tốn trong phục vụ. Khi Đức cha gởi linh mục phó xứ Kẻ Sở, cha tín nhiệm, khích lệ và nâng đỡ tận tình. Cha nói: “Xin trao phó mọi sự cho cha, tôi đã già lại chậm chạp. Xin cha coi sóc cửa nhà, giúp người và coi sóc cả tôi nữa”. Tuy được giáo dân sẵng sàng trợ cấp mọi nhu cầu cần thiết, nhưng cha Loan tự giới hạn cho mình. cha muốn sống nghèo khó theo gương Đức Giêsu. Áo quần, cha mặc cho đến sờn rách, vá trên vá dưới mới chịu dùng cái khác. Ăn uống cha chọn những thứ bình dân như người trong xứ. Khi đi giảng ở đâu, nếu ai dọn “mâm sang cỗ đầy” một chút là được cha tỏ thái độ liền. Đức cha Jeantet Khiêm ca tụng cha rằng: “Thày xét các việc cha Loan làm từ khi chịu chức linh mục đến ngày tử đạo, thày thấy có lẽ trong số linh mục Việt Nam từ trước đến nay không ai sánh bằng”.

Bị sa tay kẻ gian

Bấy giờ có hai người là Bá hộ kiểng ở làng Bún và Đô Cang ở phố Vôi. Cả hai đều ngoại giáo và hiện đang trờ xét xử vì phạm pháp. Họ bàn tính với nhau đến bắt cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là tối ngày 10.01.1840 tại họ Kẻ Chuôn, khi cha vừa dùng cơm xong, họ gỉa làm khách đến thăm cha, rồi mời xuống thuyền chở thẳng về làng Bún. Các tín hữu khi nghe biết tin đến xin chuộc, họ đòi 2.000 quan. Cha Loan thương giáo hữu nghèo nên trình bày: “Các anh đòi 200 may ra còn liệu được, chứ bạc ngàn thì vô phương”. Bá hộ Kiểng định hạ giá xuống, nhưng Đô Cang không chịu, vì muốn nộp cha để giảm án của mình.

Hai người đem nộp cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ lại phải đưa cha về thẳng Thăng Long. Vừa đến công đường, quan đầu tỉnh chỉ thẳng mặt hai ông mắng rằng: “Quân dại dột, sao bay đang tâm bắt người hiền lành đạo đức, lại đáng tuổi cha ông chúng bay thế này ?”. Tuy nhiên vì vua Minh Mạng đã ra lệnh bắt đạo, và việc cha Loan bị bắt đã công khai, quan đành ra lệnh giam cha lại.

Tuổi cao nhưng vững vàng sốt sắng

Tuy phải ra tòa hai lần, nhưng cha luôn được các quan đối xử lịch sự và kính trọng mái đầu bạc. Các quan chỉ điều tra lý lịch và khuyên cha đạp lên Thánh Giá. Cha tìm cách nói khéo đi rằng: “Các linh mục nuôi tôi và Đức cha truyền chức cho tôi thì đã chết cả rồi. Địa chỉ tôi thì nay đây mai đó, chỗ nào không chứa, tôi ẩn vào chùa nọ, đình kia. Riêng việc quá khóa thì thưa quan, tôi là đạo trưởng, làm sao tuân diều đó được?”. Khi quan hỏi sao lại theo đạo ngoại quốc, cha trả lời: “Tôi chẳng theo Chúa của nước nào cả, tôi chỉ thờ Chúa trời đất, Chúa của muôn dân thôi”.

Trong trại giam, cha Loan không hề bị gông cùm, vì các tín hữu đút tiền cho lính canh và nói: “Cụ già quá rồi, có bảo trốn cũng chẳng đi được, mấy anh cùm lại làm chi ?”. Lính thông cảm tuổi già nên không cùm cha một ngày nào. Một lần quan tỉnh xuống trại giam gặp cha, dặn dò lính canh: “Cụ già tuổi tác cao, phải xử cho hẳn hoi, đừng cấm người ta vào thăm”. Nhờ thế, trong những ngày tháng giam tù, cha Loan được rất nhiều người thăm nuôi tiếp tế. Quà biếu nhận được, cha chia sẻ cho lính và các bạn tù nên càng được họ quý mến.

Tuy không thiếu thốn vật chất, nhưng vì sức yếu tuổi già, lại phải ở nơi chật hẹp hôi hám, sau một tháng tù cha Loan trở bệnh nặng, chân phù, mặt sưng, cộng với căn bệnh suyễn kinh niên, làm cha kiệt quệ, nhiều lúc tưởng không hy vọng đi tới đích cuối cùng lãnh phúc tử đạo. Viên cai ngục thấy thế tội nghiệp, tâu trình và xin phép quan cho một tín hữu họ đạo Chuôn Trung ở luôn trong tù chăm sóc cho cha đến ngày xử tử. Hai ba giáo xứ nài nỉ cha làm tờ di chúc thi hài sau khi chết cho xứ mình. Cha chỉ cười và nói: “Xác tôi cũng là tro bụi, chết rồi cũng tanh hôi cho gày bọ rúc rỉa, các ông xin làm chi?”. Thế nhưng cha nhận lời ký giấy trao thi thể cho họ Chuôn Trung, xứ Kẻ Chuôn, túc là xứ đạo của người giúp cha trong tù, được lo liệu mai táng khi cha khải hoàn về Thiên Quốc.

Vinh phúc thiên thu

Quan tỉnh Hà Nội tuy quý trọng cha, nhưng lại sợ vua Minh Mạng, nên khi thấy cha cương quyết không bỏ đạo, ông đành làm án xử trảm quyết. Vua Minh Mạng châu phê và ra lệnh thi hành. Trước ngày xử, một giáo dân tìm cách đưa cha Tuấn vào tù giải tội và trao Mình Thánh cho cha già.

Đúng ngày 05/06/1840, quân lính tình nguyện cáng cha già Loan ra pháp trường, nhưng cha cám ơn từ chối. Vì trời nắng gay gắt, cha chỉ chấp nhận cho hai tín hữu đi hai bên cầm lọng che nắng. Viên quan giám sát chủ trì phiên sử thấy cha đi bộ cũng bỏ ngựa, giao cho một người lính rồi cùng đi ra cửa ô Cầu giấy là nơi thi hành bản án. Đến nơi, ông nói với cha: “Cụ muốn làm gì thì làm đi”. Cha Loan qùi xuống cầu nguyện, rồi vui vẻ đưa tay cho lính cột trói vào cọc. Mười người lính được chỉ định chém cha Loan bỗng trốn đi đâu hết. Uy tín của cha qúa lớn, đến độ họ cứ sợ sau khi chết, hồn cha sẽ nhập vào họ trả thù chăng. Để giải quyết vấn đề, quan liền sai một người lính nam bộ, anh Minh, người lính bất đắc dĩ đó đã đến lạy cha Loan và biện bạch rằng: “Việc vua truyền chúng cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho, cháu sẽ giúp cụ chết êm ái. Khi về trời, cụ nhớ đến cháu nhé”. Cha Loan gật đầu, rồi ra hiệu cho anh thi hành phạân sự. chỉ một nhát chém, cha giã từ trần thế về Thiên Quốc. Các tín hữu xông vào cởi áo, thấm máu vị tử đạo như một chứng tích anh hùng của người cha tuy già yếu nhưng mạnh mẽ về niềm tin.

Được ân huệ trối trăng, xứ Kẻ Chuôn đem thi hài cha về chôn cất ở họ mình.

Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn cha Luca Vũ Bá Loan lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.


Ngày 05 tháng 06
Thánh Đaminh TOẠI
Ngư phủ - (1812 – 1862)
Thánh Đaminh HUYÊN
Ngư phủ - (1817 – 1862)

Lễ toàn thiêu

Trong hạnh tích 117 vị thánh tử đạo trên đất Việt, chỉ có sáu bản án thiêu sinh, và tất cả đều diễn ra vào tháng 06.1962. Thánh Đaminh Toại và Đaminh Huyên là hai vị đầu tiên được vinh dự trở thành của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa vào đứng ngày vua Tự Đức ký hòa ước nhâm tuất cho phép tự do tôn giáo (06-06-1862). Ba ngày trước khi bản án được thi hành, hai vị đã biết tin mà không chút nhụt chí. Thay vì sợ hãi, hai vị đã vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. có lẽ như thánh Polycarpo thuở xưa khi lên giàn lửa, hai vị đã tin tưởng rằng :

"Đấng đã giúp tôi quyết định chịu đau khổ vì Ngài, sẽ cho tôi sức mạnh. Đấng ấy sẽ làm cho lửa dịu lại và cho tôi đủ sức lướt thắng mọi thử thách".

Không để mất cơ hội

Hai ông Đaminh Toại và Đaminh Huyên đều là người làng Đông Thành, tỉnh Thái Bình, đồng thời là tín hữu của làng Đông Thành (Đông Thành, Đại Đồng và Trung Đồng là ba xứ được tách ra từ xứ Kẻ Mèn, thuộc giáo phận Trung Đàng Ngoài). Cả hai đã lập gia đình và là những gia trưởng đạo đức, gương mẫu. Hai ông làm nghề đánh cá trên sông Nhị Bình, gần cửa Ba Lạt. Khi bị lính bắt, ông Toại đã trên 50 tuổi, còn ông Huyên 45 tuổi.

Hai ông Toại và Huyên cùng với 16.000 giáo hữu giáo phận Trung là nạn nhân trực tiếp của chiếu chỉ Phân sáp tháng 08.1861 của vua Tự Đức. Theo chiếu chỉ này, quân lính và những dân làng ngoại giáo được phép tràn vào các khu vực Công Giáo để tịch thu tài sản, sau đó bắt trói các giáo hữu đưa lên huyện để khắc trên mà hai chữ "Tả Đạo", rồi hoặc trao họ cho người ngoại giáo quản lý, hoặc giam chung họ trong ngục.

Làng Đông Thành cũng cùng chung số phận đó. Lính bắt ông Đaminh Huyên và giải lên huyện Quỳnh Côi. Ông Toại vì bị bệnh tật không thể đi bộ theo quân lính được, nên họ đề nghị ông nộp tiền chuộc nếu muốn tự do về xum họp với gia đình. Nhưng ông đã từ chối vì không muốn để mất cơ hội quí báu là hiến dâng mạng sống mình minh chứng cho niềm tin và tình yêuvào Thiên Chúa. Ông xin quan cho phép đi xe đến huyện trình diện, để được chung số phận với các giáo hữu cùng xứ đạo.

Kiên Tâm bền chí vì Đức Kitô

Tại huyện Quỳnh Côi, sau khi khẳng định lập trường đức tin của mình, hai ông Toại, Huyên bị tống giam vào ngục tù Tăng Già. Suốt thời gian chín tháng ở đây, mọi người có thể thấy rõ lòng quả cảm và kiên cường của hai ông. Nào đói, nào khát, nào đòn vọt và ngay cả án tử hình cũng không làm các ông nản lòng. Ngược lại, hai ông tiếp tục khích lệ các bạn kiên trì giữ vững niềm tin. Ông Toại thường nói với các bạn tù:

"Nào anh em, hãy can đảm lên ! Chúng ta chịu khổ hình vì Đức Kitô, nên chúng ta phải đón nhận đau khổ cách nhẫn nại. Chúng ta phải bền chí đến cùng, và nếu cần, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chúa".

Nhiều lần bị dẫn đến trước công đường và bị ép buộc chà đạp Thánh giá, hai ông Đaminh Toại và Đaminh Huyên khẳng khái phản đối. Các quan thấy khó lòng lay chuyển được hai nhân chứng của Chúa, nên kết án thiêu sinh cả hai vị. Khi biết tin này, hai vị hân hoan tạ ơn Chúa.

Đến ngày xử án, sáng 05-06-1862, hai vị vui vẻ rảo bước đến giàn hỏa thiêu dành sẵn cho mình. Trước sự chứng kiến của rất đông người, hai ông bước vào cũi tre chờ đợi. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe rõ các ông cất tiếng cầu nguyện thật lớn trong khi ngọn lửa phừng phực bốc cao.

Không ai ghi lại những lời hai vị đã cầu nguyện khi bị hỏa thiêu, nhưng dựa vào thái độ và tâm tình của các vị, chúng ta có thể liên tưởng đến lời cầu nguyện của thánh Polycarpo trên giàn lửa thủa xưa : "Lạy Chúa các thiên binh, Chúa Tể trời đất, Đấng bênh vực kẻ công chính và những ai bước đi trong sự hiện diện của người. Con là một kẻ bé mọn trong các tôi tớ Chúa đây, xin tạ ơn người đã cho vinh dự được đau khổ, được cầm trong tay triều thiên tử đạo và được kề môi đón nhận chén thương khó. Này đây lạy chúa, hiến tế con sắp hoàn tất trong ngày hôm nay, con sẽ được thấy lời hứa của Người thể hiện. Amen".

Ngày 29-04-1951, Đức Piô XII đã suy tôn hai ông Đaminh Toại và Đaminh Huyên lên hàng Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
 

langvuon

khoai nướng
Ðề: Lịch Phụng Vụ 6/2011

Thứ Hai 06 Tr
Thứ Hai sau Chúa Nhật thứ VII Mùa Phục Sinh
Cv 19: 1-8 Tv 68: 2-3, 4-5, 6-7 Ga 16: 29-33
Kính thánh tử đạo Phêrô Dũng, Phêrô Thuần , Vinh Sơn Dương, Giáo dân

Thứ Ba 07 Tr
Thứ Ba sau Chúa Nhật thứ VII Mùa Phục Sinh
Cv 20: 17-27 Tv 68: 10-11, 20-21 Ga 17: 1-11

Thứ Tư 08 Tr
Thứ Tư sau Chúa Nhật thứ VII Mùa Phục Sinh
Cv 20: 28-38 Tv 68: 29-30, 33-35, 35-36 Ga 17: 11-19

Thứ Năm 09 Tr
Thứ Năm sau Chúa Nhật thứ VII Mùa Phục Sinh
Thánh Ephrem, Phó Tế Tiến Sĩ
Cv 22: 30; 23: 6-11 Tv 16: 1-2, 5, 7-8, 9-10, 11 Ga 17: 20-26

Ngày 06 tháng 06
* Thánh Phêrô ĐINH VĂN DŨNG
Ngư phủ - (1800 - 1862)
* Thánh Phêrô ĐINH VĂN THUẦN
Ngư phủ - (1800 - 1862)

Hai ngọn đuốc sáng

Đức Kitô, ánh sáng vĩnh cửu đã nhập thể trong trần gian để mặc khải về Chân Lý Cứu Độ. Ngài đến và kêu mời những ai theo Ngài hãy trở nên ánh sáng cho thế gian, làm chứng cho Tin Mừng Cứu độ bằng lời nói, bằng thái độ và bằng cuộc sống của chính mình. Người tín hữu sẽ trở thành ánh sáng, sẽ biểu hiện một cuộc sống gương mẫu “để mọi người ngợi khen cha của anh em, đấng ngự trên trời” (Mt 5,16) qua việc phục vụ tận tình như dấu chỉ Nước Trời đang hình thành và với thái độ chấp nhận hi sinh dấn thân cho Chân lý.

Hai vị thánh Phêrô Dũng và Phêrô Thuần khi chấp nhận bản án thiêu sinh hơn là bỏ đạo, đã dùng chính thân thể mình làm ngọn đuốc sáng: Chấp nhận hủy diệât mạng sống hầu được sống trường tồn. Để rồi ngọn lửa rực sáng trong khoảng khắc ấy, mọi người sẽ thấy bừng lên Aùnh sáng Thần Linh của Thượng Đế, Đấng các vị làm chứng cho đến hơi thở cuối cùng.

Khó khăn thử thách.

Ông Phêrô Đinh Văn Dũng (con ông Phê rô Mẫn và bà Maria An) và ông Phêrô Đinh Văn Thuần đều đã ngoài 60 tuổi, là anh em con chú con bác, người họ Đông Phú thuộc giáo xứ Trung Đồng, Kẻ Mèn, tỉnh Thái Bình trong giáo phận Trung Đàng Ngoài. Hai ông làm nghề đánh cá, một nghề như thánh Phê rô, bổn mạng hai ông đã từng làm. Riêng ông Phêrô thuần còn được chọn làm Lý trưởng nhờ tấm lòng cương trực và khả năng của mình. Là những giáo hữu bình dân chất phác và nhiệt thành, sau khi lập gia đình, hai ông đã tận tâm giáo dục con cái sống đạo cách sốt sắng theo tinh thần Phúc Âm.

Tháng 08-1861 với chiếu chỉ phân sáp của Vua Tự Đức, việc bách hại đạo gia tăng cách khủng khiếp nhất là trong giáo phận Trung. Các quan thi hành triệt để lệnh Vua, không những cho quân lính truy lùng các vị thừa sai, giám mục, linh mục, thày giảng, mà còn cưỡng ép mọi giáo hữu bất kể nam phụ lão ấu đều phải chối đạo và bước qua Thánh Giá. Đất đai, vườn ruộng, nhà cửa, sức vật. của giáo hữu sau khi bị phân sáp đều bị tịch thu, phá hủy. Hơn nữa, giáo hữu còn bị khắc trên má hai chữ “Tả Đạo” để khỏi lẩn trốn. Quả thực, Giáo Hội Việt Nam đang phải chìm đắm trong những thử thách lớn lao.

Đầu năm 1862, thảm họa đã đổ xuống trên làng Đông Phú. Trong dịp này, hai ông Phêrô Dũng và Phêrô Thuần đã bị bắt và bị giải về phủ huyện, rồi bị tống giam vào ngục Ngọc Chí. Tại đây hai ông chịu nhiều cực hình, cổ mang gông, chân chịu xiềng xích, và nhiều lần quân lính đưa hai ông đến trình diện quan lớn, rồi bị cưỡng ép chà đạp Thánh Giá. Nhưng các ông vẫn nhất mực từ chối lời quan, và thẳng thắn tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Kitô.

Hai mẫu gương sống động.

Các quan đã phải dùng đến phương sách tình cảm để mong khuất phục hai ông. Quan cho quân lính dẫn hai ông về thăm gia đình, gặp vợ con. Trước cảnh gông cùm xiềng xích của người chồng, người cha, cả hai gia đình đều nức nở khóc lóc buồn thương. Nhưng điều quan quân không ngờ được: Hai ông bình tĩnh an ủi và khích lệ vợ con hãy sẵn sàng chấp nhận việc dâng hiến của mình. Ông Phêrô Dũng nói: “Hãy vui mừng vì tôi được hy sinh mạng sống cho Đức Kitô”.

Sau đó hai vị anh hùng bình thản trở về nhà tù sống chung với các chứng nhân khác.

Tháng 04-1862, các quan đầy hai ông ra làng Lương Mỹ, thuộc huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, và giam ở đó hai tháng. Trong hoàn cảnh này, ông Phêrô Thuần đã một lần thối chí và nghe lời quan đạp lên Thánh Giá. Thế nhưng sau khi gặp các bạn hữu, ông tìm được can đảm, tiếp tục tuyên xưng niềm tin cho đến chết, bất chấp mọi đòn vọt tra tấn.

Nhận thấy việc kéo dài thời gian giam giữ hai ông Phêrô Dũng và Phêrô Thuần cũng vô ích, các quan liền kết án thiêu sinh hai ông. Ngày 06-06-1862, quan cho nhốt hai chiến sỹ đức tin vào một chiếc cũi tre chật hẹp, rồi chất củi thiêu sống hai ông. Trong ngọn lửa phừng phực nóng bỏng, hai chứng nhân của Chúa Kitô chắp tay cầu nguyện, tạ ơn Chúa trong tâm tình hiến dâng mạng sống mình để nói lên niềm tin kiên vững vào Đấng Cứu Chuộc. Thi thể cháy đen của hai vị tử đạo được chôn cất ngay tại chỗ. Về sau, giáo dân đem an táng tại sân nhà thờ Đông Phú, quê hương của cac ngài.

Cùng với 23 vị tử đạo khác tại Việt Nam, hai ông Phêrô Đinh Văn Dũng và Phêrô Đinh Văn Thuần đã được Đức Piô XII suy tôn lên bậc Chân Phước ngày 29-04-1951. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.


Ngày 06 tháng 06
Thánh Vinh Sơn DƯƠNG
Thu thuế - (1821 - 1862)

Đường thẳng về quê thật

“Thế gian bách hại nhưng đã thắng
Thể xác đớn đau vẫn coi thường
Cái chết oai hùng con đường thẳng
Khải hoàn Thiên Quốc, chính Quê Hương”.

Đoạn Thánh Thi Kinh Sáng Phụng Vụ các Thánh Tử Đạo cho chúng ta thấy cái nhìn của Giáo Hội về chứng tá oanh liệt của các chứng nhân đức tin. Với niềm tin tuyệt đối vào Đức Kitô, vào vinh phúc vĩnh cửu, các ngài đã sẵn sàng chấp nhận cái chết, từ bỏ cuộc sống trần gian để được khải hoàn với ngành lá vạn tuế. Các ngài đã chấp nhận “thua” để được “thắng”, chấp nhận đau khổ để được hạnh phúc muôn đời, với một thái độ hiên ngang đến nỗi chính lý hình cũng phải ngỡ ngàng kính nể.

Thái độ kiên cường đó không chỉ giành riêng cho hàng giám mục, linh mục, tu sĩ, mà ngay cả những giáo hữu nghèo nàn, chất phác như trường hợp thánh Vinh Sơn Dương. Dưới ánh sáng của đức tin, ông Đương không hề sợ hãi nao núng khi chịu chết vì danh Chúa Kitô. Vinh Sơn Dương đã nằm xuống, nhưng danh tính ông sẽ mãi mãi lưu truyền đến thiên thu.

Cuộc đời và gian khổ.

Ông Vinh Sơn Dương sinh quán tại làng Doãn Trung, sau gọi là Phương Viên, thuộc xứ Kẻ Mèn, tỉnh Thái Bình, giáo phận Trung (nay là giáo phận Thái Bình). Ông lập gia đình và sinh được ba người con. Ngoài việc canh tác ruộng nương như mọi người nông dân khác, ông còn còn giữ thêm chức vụ thu thuế trong làng nữa. Cũng vì chức vụ này ông bị “quan tâm đặc biệt” hơn các giáo hữu khác trong thời bách hại.

Trong vòng chỉ trong 15 năm, vua Tự Đức đã lần lượt ra đến tám chiếu chỉ cấm đạo ngày càng gay gắt, và rộng rãi hơn. Tháng 08-1861 với chiếu chỉ Phân sáp, nhà vua đã động viên cả guồng máy quan quân cho đến những người dân ác cảm với đạo. Khi cho phép quan quân và người ngoại giáo được tịch thu tài sản, cũng như bắt các tín hữu về làm đầy tớ trong nhà, nhà vua đã đẩy họ vào tình cảnh bi đát nhất chưa từng có. Thế nhưng nhà vua đã lầm. Những giáo hữu tầm thường nhất, dù chỉ còn hai bàn tay trắng vẫn giữ được trái tim sắt đá, vẫn đủ sáng suốt can đảm để không bao giờ tuân lệnh độc đoán của nhà vua.

Khoảng cuối tháng 09-1861, ông Vinh Sơn Dương cùng với nhiều giáo hữu khác bị bắt và bị phân sáp vào làng Mỹ Nhuệ, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Suốt chín tháng bị giam giữ tại đây với bao hình khổ dữ dằn, bao sỉ nhục mắng nhiếc, ông Vinh Sơn Dương đã vui vẻ chấp nhận tất cả để giữ lòng trung tín với Chúa Giêsu, quyết không chà đạp lên Thánh Giá.

Ánh lửa tỏa khắp năm châu.

Cuối cùng, ngày 06-06-1862, ông Vinh Sơn Dương đã lãnh bản án thiêu sinh. Sau giờ hành quyết, các giáo hữu đã chôn cất vị anh hùng đức tin ngay nơi lãnh phúc tử đạo. Ít lâu sau, thi hài ông Dương được cải táng và rước về mai táng tại nhà thờ thánh Vinh Sơn, nơi quê hương của Ngài, chính vợ ông, bà Anrê Tịnh, hiện diện trong ngày xử án, sau cũng đến làm chứng cho chồng với giáo quyền để lập hồ sơ phong thánh.

Thế là sau 18 thế kỷ của lịch sử Kitô Giáo, một người nông dân Việt Nam lại bị thiêu sống như hàng loạt các tín hữu thời sơ khai tại hý trường Rôma thời bạo chúa Nêrôn. Có điều ánh lửa thiêu đốt ông Vinh Sơn Dương không lịm tắt đi nơi vùng quê của đất nước Việt Nam, nhưng sẽ bừng lên tỏa sáng khắp năm châu.

Ngày 29-04-1951, danh xưng ông Vinh Sơn Dương trở lên bất diệt, khi Đức Thánh Cha Piô XII long trọng suy tôn ông lên bậc Chân Phước tại Vương Cung Thánh Đường thánh Phêrô. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Trong hiến chế giáo hội, Công Đồng Vatican II gợi lên cho chúng ta những suy nghĩ mỗi khi chiêm ngưỡng mẫu gương chết vì đức tin đáng trân trọng: “Khi tử đạo, người môn đệ đồng hóa với Thày mình, đấng đã tình nguyện chấp nhận cái chết để cứu nhân độ thế. Giáo Hội coi việc tử đạo như một ân huệ lớn lao và là một bằng chứng cao cả về đức ái. Mặc dù chỉ một số ít được phúc tử vì đạo, nhưng tất cả mọi người đều phải sẵng sàng tuyên xưng Chúa Kitô trước mặt tha nhân và bước theo Ngài trên đường Thánh Giá giữa những cuộc bách hại không hề thiếu vắng trong Giáo Hội” (Số 42B).


Ngày 09 tháng 06
Thánh Ephrem
Phó Tế, Tiến Sĩ Hội Thánh
(306 - 373)

Thánh nhân sinh tại Nisibis, miền Mesopotamia vào khoảng đầu thế kỷ thứ IV. Có truyện kể rằng: hồi nhỏ, một lần Ngài lấy đá chọi con bò mẹ gần chết. Khi chủ nhân hỏi thăm có thấy con bò ở đâu Ngài đã trả lời xấc xược để chữa lỗi. Ephrem đã khóc suốt đời về sự độc ác và hèn nhát này. Sau này có lần vào đêm khuya bị lạc vào giữa đồng, một đứa chăn chiên cho Ngài trú ngụ trong lều của nó. Nhưng đứa chăn chiên này đã xấu bụng lại đang say rượu. Đêm ấy chó sói vào tàn sát đàn chiên. Để chữa mình, thằng chăn chiên đổ lỗi cho Ephrem. Trong tù Ngài nghe nhiều người than thở vì bị hàm oan. Một buồi chiều, trong giấc mơ, Ngài thấy thiên thần cho biết lần này Ngài vô tội nhưng phải khổ để đền bù vào những lỗi lầm khác. Thức dậy, Ephrem nhớ lại con bò và thú nhận với mọi người. Thân phụ Ephrem là một thày cả thờ thần Abnil. Hình như Ngài bị đuổi khỏi nhà vì có thiện cảm với các Kitô hữu. Thánh Giacôbê, Giám mục Nisibis tiếp nhận dạy dỗ và rửa tội cho Ngài hồi 10 tuổi. Để sống, Ngài làm việc ở những hồ tắm công cộng. Nhưng sau đó Ngài lại vào sa mạc sống với sự hướng dẫn của thánh Abbê ẩn tu; dệt vải để sống như thói quen của các ẩn sĩ Ai cập và Mêsôpôtamia thời đó.

Ephrem thường khóc tội mình và tội người khác. Các tập “tự thú” Ngài viết cho thấy Ngài rất mực khiêm tốn, Ngài rất ghét tính kiêu căng:

- Tính kiêu căng phá đổ ơn Chúa và thiêu hủy mọi nhân đức.

Thánh Ephrem luôn ao ước sống đời ẩn dật. Nhưng một cuộc chiến đã bùng ra giữa người Rôma và người Batư. Người Batư bách hại các Kitô hữu cách tàn bạo. Nghe tin này, Ephrem về Nisibis để giúp đỡ và khích lệ họ. Danh thơm nhân đức của Ngài lan rộng đến nỗi người ta cho việc giải phóng khỏi ách thống trị của Sapor II là bởi lỗi cầu nguyện của thánh nhân.

Được thụ phong phó tế, nhưng rồi thánh nhân đã từ chối chức linh mục vì khiêm tốn. Được Đức Giám mục Nisibis trao cho trách nhiệm rao giảng lời Chúa, Ngài dùng hết tài lợi khẩu để khêu gợi nhiệt tình nơi các linh hồn:

- “Thần dữ nói: Ta đi tìm những người khô khan là bạn hữu của ta, và ta không cần phải tìm đến mưu kế, ta chỉ cần giữ chúng trong xiềng xích mà chúng ưa thích là đủ.”

Thánh Ephrem đã gặp thánh Basiliô thành Cappadocia. Truyền thuyết cho rằng: hai vị hiểu nhau dầu ngôn ngữ bất đồng.

Chiến tranh tái phát, Nisibis rơi vào tay người Batư, thánh Ephrem trốn đến Sdessa. Nơi đây, Ngài tận tâm phục vụ bệnh nhân và người nghèo, hoạt động trí thức bằng việc viết sách và giải thích thơ phú. Thánh Ephrem đã viết các bài giảng bằng thơ, các thánh thi ca ngợi vinh quang Chúa Kitô và Đức Trinh Nữ Maria. Người luôn được gọi là “cây đàn của Thánh Linh” là một trong những người rao truyền việc VÔ NHIỄM THAI.

- Lạy Chúa, chỉ có Chúa và Mẹ Chúa là tuyệt mỹ. Nơi Mẹ Chúa không vương một tì tích nào.

Một năm trước khi thánh nhân qua đời, Edessa bị một cơn đói. Ngài kêu gọi lòng quảng đại của mọi người và người ta đã rộng tay đóng góp vào công cuộc phát chẩn của thánh. Cơn đói chấm dứt, thánh nhân trở lại chòi của mình. Lên cơn sốt, Ngài nghĩ tới lúc chết:

- Đừng liệm xác tôi bằng đồ quí giá, cũng đừng dựng đài tưởng niệm. Hãy đối xử với tôi như một người lữ khách vì thực sự tôi là một lữ khách xa lạ trên mặt đất này thôi.

Ngài qua đời có lẽ vào tháng 6 năm 373. Thánh Gregoriô miền Nyssa viết về thánh Ephrem:

- Vinh quang đời sống và giáo thuyết của thánh nhân chiếu giãi khắp hoàn cầu.

Năm 1820, Đức Bênêđictô XI tôn phong Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh.
 

langvuon

khoai nướng
Ðề: Lịch Phụng Vụ 6/2011

Thứ Sáu 10 Tr
Thứ Sáu sau Chúa Nhật thứ VII Mùa Phục Sinh
Cv 25: 13-21 Tv 103: 1-2, 11-12, 19-20 Ga 21: 15-19

Thứ Bảy 11 Tr
Thứ Bảy sau Chúa Nhật thứ VII Mùa Phục Sinh
Lễ nhớ Thánh Barnabe, Tông Đồ
Cv 28: 16-20, 30-31 Tv 11: 4, 5, 7 Ga 21: 20-25
Nhớ ngày tấn phong Giám mục Việt Nam tiên khởi, Đức Cha Gioan B. Nguyễn Bá Tòng

Ngày 11 tháng 06
Thánh Barnabe
(thế kỷ thứ nhất)

Thánh Barnabas, một trong những nhà truyền giáo tiên khởi của Giáo Hội,
đóng vai trò chủ yếu trong việc loan truyền và chuyển dịch Phúc Âm cho dân ngoại. Qua sách Công Vụ Tông Ðồ, chúng ta được biết ngài là người Do Thái ở Cypriot tên thật là Giuse, và các tông đồ đã đặt tên cho ngài là Barnabas sau khi ngài bán của cải và giao cho các tông đồ cai quản.


Mặc dù Barnabas không phải là một người trong nhóm Mười Hai nguyên thủy, Thánh Luca coi ngài như vị tông đồ vì ngài được lãnh nhận nhiệm vụ đặc biệt từ Chúa Thánh Thần. Một trong những đóng góp quan trọng của Barnabas là ngài đã đảm bảo cho Saolô, một người mới tòng giáo mà ai ai cũng sợ hãi vì quá khứ bắt đạo của Saolô. Sau đó, Barnabas được sai đi rao giảng ở Antiôkia. Khi công việc ngày càng có kết quả, Barnabas đã xin Phaolô (tên cũ là Saolô) đến tiếp tay; cả hai đã xây dựng một giáo hội thật phát triển. Theo sách Công Vụ Tông Ðồ, chính ở Antiôkia mà "lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô Hữu."


Chính trong cộng đoàn siêng năng cầu nguyện này mà "Thánh Thần phán bảo, 'Hãy dành riêng cho Ta Barnabas và Phaolô để lo cho công việc mà Ta đã kêu gọi hai người ấy." Sau đó họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi." Do đó, Barnabas và Phaolô khởi hành chuyến đi truyền giáo đầu tiên thực sự ở nước ngoài, trước hết đến Cyprus (là nơi họ hoán cải một quan đầu tỉnh người Rôma) và sau đó đến lục địa Tiểu Á. Lúc đầu các ngài rao giảng cho người Do Thái, nhưng bị chống đối dữ dội nên họ quay sang rao giảng cho dân ngoại và đã thành công lớn. Trong một thành phố, người Hy Lạp quá mến mộ các ngài đến nỗi họ tôn thờ Barnabas và Phaolô như các thần Zeus và Hermes. Vất vả lắm thì các ngài mới ngăn cản được đám đông hiếu khách ấy đừng dâng của lễ mà tế các ngài.


Công cuộc truyền giáo cho dân ngoại nẩy sinh vấn đề là người tòng giáo có phải cắt bì theo luật Do Thái hay không. Phaolô và Barnabas đã chống đối tập tục này và lập trường của các ngài đã làm chủ tình hình trong Công Ðồng Giêrusalem.


Barnabas và Phaolô dự định tiếp tục công cuộc truyền giáo, nhưng ngay tối trước khi khởi hành, một bất đồng xảy ra là có nên đem theo một môn đệ nữa hay không, là ông Gioan Máccô. Vì vấn đề này mà hai tông đồ tách làm đôi. Phaolô đem Silas đi Syria, còn Barnabas đem Máccô đến Cyprus. Sau này, ba người: Phaolô, Barnabas và Máccô đã làm hòa với nhau.


Mặc dù không có những dữ kiện rõ ràng, dường như Barnabas, với sự tháp tùng của Gioan Máccô, đã trở về Cyprus. Ở đây, theo truyền thuyết, ngài đã chịu tử đạo vào năm 61.


Lời Bàn

Thánh Barnabas được đề cập như một người tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Ngài là người "đầy tràn Thánh Thần và đức tin. Do đó đã lôi cuốn một số đông người về với Chúa." Ngay cả khi ngài và Thánh Phaolô bị trục xuất khỏi Antiôkia, họ "tràn ngập niềm vui và Thánh Thần." _____________________________________________________
Ngày 11 tháng 06
Ðức Cha Gioan B. Nguyễn Bá Tòng

Nguyên Giám Mục Giáo Phận Phát Diệm

Khẩu Hiệu : "Hãy Châm Rễ Sâu Trong Dân Ta Chọn"

Đức Cha Sinh ngày 07/08/1868 tại Gò Công, Mỹ Tho, Việt Nam

Thụ phong Linh Mục thụ phong linh mục ngày 19/09/1896

Ðược tấn phong Giám Mục tại Roma 11/06/1933
(Giám Mục Việt Nam Tiên Khởi). Giám Mục phó với quyền kế vị Giám Quản Giáo Phận Phát Diệm, Việt Nam

20/10/1935 Ðược bổ nhiệm làm Giám Mục Chính Giám Quản Tông Tòa Giáo Phận Phát Diệm, Việt Nam

11/07/1949 Ngài Qua Đời . Hưởng Thọ 81 tuổi
 

langvuon

khoai nướng
Ðề: Lịch Phụng Vụ 6/2011

Chúa Nhật 12 Đ
LỄ ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
Lễ nhớ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ
Cv 28: 16-20, 30-31 Tv 11: 4, 5, 7 1Cor 12: 37, 12-13 Ga 20: 19-23
Kính thánh tử đạo Augustinô Phan Viết Huy, Đaminh Đinh Đạt, Nicôlaô Bùi Đức Thể, binh sĩ

LỄ ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN

Trong kinh Veni Creator (Lạy Đấng Sáng Tạo, xin ngự đến), có một vế nói đến 7 ơn Chúa Thánh Thần. Vế kinh này nhắc lại cho chúng ta giáo lý cổ truyền về 7 ơn Chúa Thánh Thần. 7 ơn này xưa kia chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống Ki-tô hữu, nhưng ngày nay xem ra lu mờ dần. Vì thế, tưởng cũng nên nhắc lại để phục hồi vị trí nguyên thủy của những ơn này, hầu khơi dậy nơi chúng ta lòng quý mến, đồng thời thúc đẩy chúng ta tìm cách chiếm lãnh cho kỳ được những ơn đó.

Bản liệt kê 7 ơn Chúa Thánh Thần có nguồn gốc trong Kinh thánh. Khi ngôn sứ I-sai-a loan báo một vị vua hoàn hảo sẽ ra đời, ông trông thấy trước Thần Khí Đức Chúa ngự xuống trên vua. Thần Khí này mang theo mọi đức tính cần thiết của một vị vua để làm cho hòa bình, công lý ngự trị " Thần Khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này : Thần Khí khôn ngoan và minh mẫn, Thần Khí mưu lược và dũng mãnh, Thần Khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa." (Is 11,2). Rồi để cho đủ con số 7, một con số hoàn hảo theo Kinh thánh, bản dịch Hy Lạp cũng như bản dịch La Tinh đều thêm một Thần Khí nữa, đó là Thần Khí hiếu nghĩa, mà chúng ta quen nghe nói là đạo đức. Bản kinh long trọng khi cử hành bí tích Thêm sức lấy lại bản liệt kê này và quả quyết rằng những ơn nói trên có ở nơi con người Đức Giê-su. Vì thế ta không được coi thường. Vậy cần hiểu những ơn đó theo nghĩa Kinh thánh để thêm lòng trân trọng.

* Khôn ngoan

Khôn ngoan là ơn hoàn hảo nhất trong các ơn, vì nó làm cho chúng ta yếu mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn trên hết mọi sự.

* Minh mẫn

Theo Kinh thánh, ơn này giúp chúng ta hiểu được phần nào mầu nhiệm về Thiên Chúa, điều mà thông thường con người không thể tự mình hiểu nổi.

* Mưu lược

Ơn này giúp ta nhìn thấy con đường phải theo và để phân biệt rõ hơn, ta không ngần ngại hỏi ý kiến.

* Dũng mãnh

Ơn này là một trong những phẩm tính năng gặp nhất của Thần Khí. Nó ngược với bạo lực. Trong Kinh thánh, chính Thiên Chúa cũng được gọi là : "Đức Chúa mạnh mẽ, oai hùng."(Tv 24,8)

* Hiểu biết

Ơn này chắc hẳn không giống với sự hiểu biết thông thường của chúng ta ngày nay. Theo nghĩa Kinh thánh thì hiểu biết nói đây là biết Thiên Chúa và mọi sự liên quan đến Người. Kẻ "ngu si" là người đặt vật thọ tạo vào chỗ Đấng Sáng tạo. Đó là tội thờ ngẫu tượng như thư Rô-ma viết : "Thay vì Thiên Chúa vinh quang bất tử, họ đã thờ hình tượng người phàm là loài phải chết..." (Rm 1,23)

* Hiếu nghĩa

Ơn này chúng ta thường nghe nói là ơn đạo đức. Thực ra đây không phải là những việc đạo đức cho bằng thái độ của chúng ta đối với cha mẹ và những người chúng ta phải trọng kính biết ơn. Đó là lòng hiếu thảo hay đức hiếu nghĩa. Ơn này làm cho chúng ta luôn hướng về Thiên Chúa với lòng cảm mến thiết tha.

* Kính sợ

Kính sợ là khởi điểm của khôn ngoan (Cn 1,7). Trong Kinh thánh, kính sợ không có nghĩa là sợ hãi. Đó là sự kính trọng và một khoảng cách chúng ta cảm thấy giữa mình với Thiên Chúa, vì Người quá trổi vượt cao xa, ngàn trùng siêu việt.

Vậy 7 ơn Chúa Thánh Thần là những sự trợ giúp mà Thiên Chúa đem lại cho chúng ta, để chúng ta hoan hỉ đáp ứng ơn gọi làm con cái của Người trong lòng Hội thánh.

Cùng với những ơn này, chúng ta sẽ nếm cảm được sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cuộc đời chúng ta. Người làm hết mọi sự để mưu ích và cứu rỗi chúng ta, như thánh Sy-ri-lô, giám mục thành Giê-ru-sa-lem viết trong bài huấn giáo thứ 16 về phép Rửa : "Chúa Thánh Thần đến rất nhẹ nhàng, ảnh hưởng của Người thật ngọt ngào, ách của Người êm dịu. Trước khi đến, Người phóng ra những tia sáng hiểu biết. Người đến với tâm tình của một người bạn đích thật. Đúng thế, Người đến để cứu chữa, giảng dạy, chỉ bảo, đỡ nâng, an ủi, soi sáng trí khôn, trước hết nơi ai đón rước Người, sau đó qua người ấy, nơi những kẻ khác nữa."

Thánh Phan-xi-cô đờ Xan cũng có những lời lẽ bàn giải về 7 ơn Chúa Thánh Thần thấm thía như sau : "Ơn khôn ngoan chính là tình yêu biết nếm cảm, thưởng thức và kinh nghiệm Thiên Chúa êm dịu và ngọt ngào xiết bao. Ơn minh mẫn chính là tình yêu biết chú ý nhìn xem và thấu hiểu vẻ đẹp của các chân lý đức tin, để biết Thiên Chúa nơi chính Người, rồi từ đó đi xuống, nhìn ngắm Người nơi các vật thọ tạo. Ngược lại, ơn hiểu biết cũng chính là tình yêu làm cho chúng ta chú ý biết mình và các vật thọ tạo, để đưa chúng ta đi lên tới một sự hiểu biết hoàn hảo hơn về công việc phục vụ mà chúng ta phải dành cho Thiên Chúa. Ơn mưu lược cũng là tình yêu làm cho chúng ta cẩn thận, chú ý và khôn khéo chọn cho đúng những phương thế thích hợp để phụng thờ Thiên Chúa một cách thánh thiện. Ơn dũng mãnh là tình yêu khuyến khích và thúc đẩy tâm hồn thi hành điều trí khôn nghĩ là phải làm. Ơn hiếu nghĩa là tình yêu làm dịu bớt các mối căng thẳng và đưa chúng ta tới chỗ tận tình, vui vẻ làm các công việc đẹp lòng Thiên Chúa là Cha chúng ta, với tâm tình con hiếu thảo."

Và để kết luận, ơn kính sợ chẳng là gì khác mà chỉ là tình yêu làm cho chúng ta xa tránh tất cả những gì Thiên Chúa không ưa thích.

Cuối cùng bàn về công trình tuyệt hảo của Chúa Thánh Thần, một tác giả đương thời, Philippe Ferlay viết : "Thần Khí kiện toàn công trình của Ngôi Con, bằng cách đưa vào đó dấu vết tuyệt vời của sự hoàn hảo và vẻ đẹp. Thần Khí là nghệ nhân và nghệ sĩ về vẻ đẹp của Thiên Chúa. Chỉ duy Thần Khí mới có thể tỏ cho chúng ta thấy vẻ đẹp tuyệt vời trong công trình của Thiên Chúa. Công trình này đẹp bởi vì chính Thiên Chúa đẹp và là Đấng yêu vẻ đẹp... Thần Khí hoạt động với sự tế nhị của một bà mẹ, với lòng yêu thích nét tỉ mỉ và sự hoàn hảo."

Như vậy, 7 ơn Chúa Thánh Thần thật cần thiết và hữu ích cho chúng ta. Các ơn đó làm cho đời chúng ta thêm mạnh mẽ và đầy đủ về đường thiêng liêng, ngõ hầu giúp chúng ta sống vui tươi phấn khởi và cố gắng tô điểm đời mình cho thành một tác phẩm nghệ thuật, với sự trợ giúp của nhà Nghệ sĩ tuyệt vời là Chúa Thánh Thần.

Lm. Andrê Đỗ Xuân Quế


Ngày 12 tháng 06
TRÁI TIM ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM

“ Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả “( Lc 1, 49 )” Lạy Chúa, được Ngài cứu độ, lòng con sẽ vui mừng. Con sẽ hát bài ca dâng Chúa vì phúc lộc Ngài ban( Tv 12, 6 ). Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh của Người(St 1, 26 – 27 ). Mẹ Maria vốn được Thiên Chúa yêu thương tuyển lựa giữa muôn vàn người nữ, Mẹ đã trở nên đồng hình đồng dạng với Thiên Chúa, nghĩa là Mẹ đã nên hình ảnh của Thiên Chúa về lòng trung tín, nhân từ và lòng xót thương vô biên đối với mọi người. Vì thế, Thiên Chúa đã làm cho Trái Tim Mẹ Maria trở thành cung điện xứng đáng cho Chúa Thánh Thần, cho Con Một Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô ngự trị.

TRÁI TIM CỦA MẸ MARIA: TRÁI TIM TÌNH YÊU:

Mẹ Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Mẹ của Chúa Giêsu vì thế trái tim của Mẹ đã hoàn toàn hiến tế, thuộc trọn về Chúa, Mẹ đã để cho Thiên Chúa hoàn toàn sử dụng Mẹ cho tình yêu của Người và để cứu rỗi nhân loại. Thánh Công Đồng Vaticanô II viết:” Đức Nữ Trinh Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn và thân xác, và đem sự sống đến cho thế Đấng Cứu Độ con người, số 22, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhận định: “Chúng ta có thể nói mầu nhiệm cứu độ đã thành hình nhờ Trái Tim Đức Trinh Nữ thành Na-gia-rét khi Maria thưa lời xin vâng. Từ giây phút đó, Trái Tim Trinh Khiết Từ Mẫu ấy luôn luôn theo sát công cuộc của Con Mẹ và vươn đến với tất cả những ai được Chúa Kitô ôm ấp và tiếp tục ôm ấp trong tình yêu vô cùng của Người”. Như Chúa Giêsu trên thập giá, Mẹ Maria đã hiến tế con tim tình yêu vẹn toàn của mình cho Thiên Chúa, trái tim của Mẹ đã rộng mở để đón nhận mọi người. Người lính đâm cạnh sườn của Chúa Giêsu khi Người bị treo trên thập giá, tức thì nước và máu chảy ra, từ nơi đó phát sinh các bí tích. Trái tim hiền mẫu của Mẹ Maria cũng luôn mở rộng để cùng với Chúa Giêsu qui tụ mọi người, để ơn cứu độ của Chúa đến với mọi người. Mẹ Maria với trái tim vẹn toàn, trinh trong đã cống hiến cho công tình cứu rỗi của Chúa và góp phần xây dựng Hội Thánh trần thế. Lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng của thánh Gioan: “Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ) đã minh chứng tình yêu của Chúa là tình yêu vĩnh cửu, vô vị lợi, xả kỷ. Mẹ Maria với trái tim vẹn toàn là dấu chỉ tuyệt vời và cao đẹp nhất dẫn nhân loại và từng người đến tình yêu của Thiên Chúa Cha. Trái tim của Mẹ Maria là trái tim tình yêu vì Mẹ đã sống trọn tình yêu của Chúa Giêsu Kitô, Con của Mẹ.

MARIA ĐÃ LUÔN TUÂN THEO Ý THIÊN CHÚA :

Thiên Chúa qua sứ thần Gabrien đã gọi đích danh Maria: Mẹ đã thưa xin vâng không chút đắn đo, không chút do dự khi được sứ giả của Thiên Chúa giải thích. Maria đã nói lời xin vâng tuân theo ý Chúa. Suốt cuộc đời của Mẹ là lời thưa vâng, đáp trả tình yêu của Thiên Chúa. Đời của Mẹ là bài ca cảm tạ, tri ân không ngừng. Mẹ đã giữ kỹ những điều Mẹ đã cảm nghiệm và suy đi nghĩ lại trong lòng( Lc 2, 51 ). Cuộc đời của Mẹ là hồng ân quí giá nhất Chúa trao cho nhân loại. Qua tác động của Chúa Thánh Thần, cuộc đời của Mẹ trở nên kiệt tác tình yêu và khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì Mẹ luôn làm theo ý Thiên Chúa, nên nhân loại muôn đời sẽ khen Mẹ là người đầy ân sủng: Mẹ đã để Thiên Chúa hoàn toàn sử dụng cho tình yêu của Ngài và để góp công vào công trình cứu rỗi nhân loại. Tình yêu tự hiến của Mẹ chìm sâu trong mầu nhiệm cứu độ và làm cho cuộc sống Giáo Hội được triển nở phong phú.

Đức Thánh Cha Piô XII vào ngày 31 tháng 10 năm 1942, nhân kỷ niệm 25 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, đã dâng hiến nhân loại và toàn thể gia đình Kitô giáo khắp thế giới cho Trái Tim Đức Mẹ và ngày 04 tháng 5 năm 1944, Ngài truyền cho Giáo Hội mừng lễ kính Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria. “ Lạy Thiên Chúa chí thánh, Chúa đã làm cho Trái Tim Đức Trinh Nữ Maria nên cung điện xứng đáng của Chúa Thánh Thần; vì lời Đức Trinh Nữ chuyển cầu, xin thương giúp chúng con cũng trở nên đền thờ Chúa ngự”( Lời nguyện nhập lễ, lễ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ ).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT


Ngày 12 tháng 06
Thánh Augustinô PHAN VIẾT HUY
Quân nhân - (1795 – 1839)
Thánh Nicolas BÙI ĐỨC THỂ
Quân nhân - (1792 – 1839)
Thánh Đaminh ĐINH ĐẠT
Quân nhân - (1803 – 18.07.1839)

Dâng sớ biểu lộ niềm tin.

Một ngày mùa hạ năm 1839, vua Minh Mạng rời hoàng cung đi dạo và quan sát dân tình Huế. Tất cả sinh hoạt đều tạm ngưng, mọi người phải dạt vào lề đường, chờ xa gía nhà vua đi qua mới tiếp tục công việc mình được. Nhưng kìa, có hai người lính không thuộc đội cận vệ, bỗng từ đâu xuất hiện, tiến ra và quỳ rạp trước kiệu rồng, hai tay nâng cao trên trán một tờ sớ viết bằng chữ Hán. Viên quan nhận sớ trình cho vua xem. Tuy chỉ có hai người lính, nhưng số sớ tên ba người, là các ông Phan Viết Huy, Bùi Đức Thể, Đinh Đạt. Nội dung lá đơn ấy như sau :
"Cha ông chúng tôi đã theo đạo Gai Tô, năm ngoái các quan tra tấn ép buộc bước qua Thánh Giá, chúng tôi đã miễn cưỡng làm theo, chứ thực tâm không muốn. Nay chúng tôi xin tiếp tục giữ đạo để tròn đạo hiếu với cha ông chúng tôi".

Đó là biến cố chính đưa đến cái chết tử đạo của ba quân nhân xã Lục Thủy, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định.

Augustinô Phan Viết Huy sinh năm 1795 tại làng Hạ Linh, thuở bé có dâng mình cho Chúa, chuẩn bị làm thày giảng, nhưng sau xin ra ngoài lập ga đình, ông đã phục vụ trong quân ngũ mười năm. Người thứ hai là ông Nicolas Bùi Đức Thể sinh năm 1792 tại làng Kiên Trung, tính đến ngày vị bắt, ông mới đi lính được một tháng. Người thứ ba là Đaminh Đinh Đạt sinh năm 1803 tại làng Phú Nhai, tuy ít tuổi nhất nhưng ông đã gia nhập quân đội được 12 năm.

Đâu phải lính là can đảm.

Tổng đốc Nam Định bấy giờ là ông Trịnh Quang Khanh. Năm 1838, ông đã từng bị triệu về kinh và bị khiển trách vì tội lơ là việc thi hành bắt đạo của vua. Từ đó, ông trở thành một thứ "hùm xám" tỉnh Nam Định, thề quyết không đội trời chung với "Gia Tô tả đạo", cho quân đi lùng bắt khắp nơi. Để công việc có hiệu quả, đối tượng đầu tiên ông quan tâm là thanh lọc lại ngay trong hàng ngũ quân đội, những người ông sẽ phái đi thi hành truy lùng trong đân chúng.

Sau nhiều ngày suy tính kế hoạch và chuẩn bị, Tổng đốc tổ chức đại tiệc chiêu đãi tất cả các binh sĩ Công Giáo ở Nam Định, dựa vào lý lịch của họ. Hôm đó có khoảng 500 anh em đến dự. Trong bữa tiệc, Tổng đốc đưa ra những lời hứa hẹn và ban thưởng dành cho những ai trung thành với vua. Ông cũng khéo léo đe dọa những ai cố chấp không bỏ tà đạo. Khi tiệc đã tàn, ông cho mời hết thảy vào dinh để thử lòng họ. Tại đây, quan để sẵn những dụng cụ tra tấn như gông cùm, xiềng xích, roi kìm… và đặt tượng Thánh Giá dưới dất. Tất cả được tự do chọn lựa, bước qua ảnh Chuộc Tội, hoặc chịu gia hình thì tùy ý. Tiếc thay trong số 500 lính hôm đó chỉ có 15 người trung kiên, từ chối bước qua tượng ảnh Chúa, còn bao nhiều đều nhát sợ bỏ đạo. Tức khắc 15 người kia bị bắt giam vào trong ngục tối.

Ngày hôm sau, quân lính đưa 15 tín hữu này ra công đường, đánh đòn và bắt ép các ông bước qua ảnh Chúa, sáu người sờn lòng bỏ cuộc, chỉ còn 9 người vững vàng trước trận đòn chí tử. Cả 9 bị tống giam vào ngục. Ba ông Huy, Thể, Đạt thuộc nhóm 9 người này. riêng ông Huy, vì trước đậy có lấy vợ nhỏ ở tỉnh, đêm hôm đó trốn ra ngoài xưng tội và làm tờ cam bỏ vợ nhỏ với cha Năng tại họ Phúc Đường, rồi trở vô tù với anh em.

Ngày thứ ba, chín người trên lại được đem ra trình diện với quan, Tổng đốc hứa thưởng tiền cho ai bỏ đạo. Thoạt đầu không ai nge lời, quan ra lệnh đánh đật tàn nhẫn, rồi cho lính đánh vào đầu ngón tay từng người. Chịu không nổi, bốn người bỏ cuộc, chỉ còn năm vị cương quyết trung thành với Chúa. Đầu tháng 6, vua Minh Mạng phái thêm tướng Lê Văn Đức đem 2000 kinh binh ra tăng viện cho Nam Định. Viên tướng này vừa tới nơi đã là người cộng tác rất đắc lực với Tổng đốc trong cuộc bách hại. Ngày 25.06, khi đem Đức Cha Henares Minh và thày Chiểu ra sử tử, tướng Lê văn Đức cho dẫn năm binh sĩ bướng bỉnh ra pháp trường, có ý hù dọa để các ông sợ. Không ngờ các ông đều tỏ ra hân hoan vì tưởng sắp chết vì đạo.

Chỉ còn ba người trung tín

Thấy thế quan lại cho giải năm ông trở về trại giam. Ít bữa sau, quan truyền gọi năm ông ra tòa, mới đầu quan dùng lời ngon dụ dỗ, nhưng không thành công, liền thịnh lộ sai quân lính khiêng hai đầu gông từng người kéo lê trên tượng Chúa, các ông liền co chân lên. Họ lấy ro đánh túi bụi, vừa đánh vừa kéo chân cá ông xuống đạp lên ảnh thánh. Thêm hai binh sĩ nữa bỏ cuộc sau trận đòn này, chi còn ba ông Huy, Thể và Đạt kiên quyết trả lời với quan rằng: "Các ngài cưỡng bách chúng tôi đạp lên tượng Chúa, nhưng lòng chúng tôi khôngchiều theo, thì chẳng phải chúng tôi bỏ đạo đâu". Quan liền cho lệnh đóng gông thật nặng và giam cả ba vào trong ngục.

Từ đó trở đi, ba ông còn phải chịu nhiều cuộc tra tấn khác nữa. Khi thì mỗi người 24 roi, khi thì 150 roi. Một lần quan dùng lý luận khuyên các ông bỏ đạo tà, ông Huy thay mặt anh em đáp lại : "Quan lớn dạy chúng tôi bỏ đạo Thiên Chúa, thì chúng tôi theo đạo nào bây giờ ? Chúng tôi chỉ theo đạo thật thôi". Quan hét lên : "Nếu đạo chúng bay là đạo thật, sao Đức Vua lại nghiêm cấm ?". Bấy giờ ông Huy có dịp sử dụng những gì xưa đã học khi chuẩn bị làm thày giảng, để cắt nghĩa các lẽ đạo và trả lời cách mạch lạc sáng sủa những câu hỏi quan đặt ra. Thấy mình đuối lý, quan cho lệnh giam ba ông với linh mục Giacobê Năm, ông Lý Mã và ông Trùm Đích. Cha Năm hỏi ba ông: "Hôm nay thế nào, được hay thua?". Các ông đáp : "Chúng con chẳng chịu quá khóa, nên quan đã làm án xử rồi".

Thế nhưng các ông chưa được vua Minh Mạng châu phê. Vua truyền các quan bằng mọi cách bắt ba ông bỏ đạo vì "khi dầu đã đứt, chẳng còn phép chi nối lại được nữa". Giai đoạn này, Trịnh Quang Khanh đang bị ngưng chức Tổng đốc, Tổng trấn Lê Văn Đức tạm thay quyền đã cho lệnh đóng gông và dưa ba chiến sĩ Đức Kitô phơi nắng chỗ công cộng, ông Huy và Thể ở cửa Đông, ông Đạt ở cửa Nam suốt 21 ngày liền, mọi người đi qua đều tự do hành hạ, sỉ nhục tùy ý. Nhưng quan lại một lần nữa thất bại.

Tháng 10.1838, Trinh Quang Khanh được phục chức Tổng đốc, nên hết lòng tìm cách đền đáp ơn vua. Tổng đốc hco những người đã bỏ đạo trước đây vào ngục thất khuyên dụ dỗ ba ông bỏ đạo, nhưng những người này bị các ông khiển trách là kẻ hèn nhát dại dột, nên mắc cỡ không giám nói năng gì cả. Tổng đóâ chuyển sang kế hoạch mới, dọa nạt vợ con, thân nhân, bạn bè của ba ông, bắt họ vào nài nỉ dụ dỗ, hy vọng các ông sẽ xiêu lòng. Nhưng cả ba vị vẫn cương quyết trung thành với Chúa.

Một phút lầm lỡ…. Và thống hối

Cuối cùng Tổng đốc cho gọi các kỳ mục ba làng Hạ Linh, Kiên Trung, Phú Nhai đến, và ra hẹn trong một tháng phải ép ba chiến sĩ đức tin bỏ đạo, bằng không sẽ bị trừng phạt. Một tháng sau, những người này vẫn chưa hoàn thành được công tác khó khăn ấy. Quan liền tập trung các kỳ mục và cho lệnh đánh đòn họ trước mặt ba người chiến sĩ Đức Kitô. Và lần này ông thành công. Ông Thể động lòng trước cảnh một bô lão làng Kiên Trung chịu đòn thâm tím vì mình, xin quan tha cho cụ bằng cách đồng ý bước qua Thập Giá. Quan vỗ tay reo mừng. Tiếp theo ông Đạt cũng bước qua Thập Giá. Riêng ông Huy vẫn chưa chịu khuất phục.

Đêm hôm đó, quan cho người vào ngục dụ dỗ ông Huy : "Chẳng ai cười chú đâu, vì chú đã chịu khó rất cam đảm. Vua chẳng muốn giết chú, chi bằng cứ bước đại qua Thập Giá để khỏi rầy rà". Ông Huy nghe thấy hơi xiêu lòng, lại thấy hai bạn mình được tự do cả rồi, nên sáng hôm sau ông cũng theo chân các bạn bỏ đạo. Quan cho mỗi người mười quan tiền và cho trở lại trong quân ngũ.

Thế nhưng ba người lính được tự do trở về nhà lại thấy lòng áy náy, lương tâm cắn rứt, các ông không ngờ vụ án mình không chỉ là vấn đề cá nhân. Quá nhiều người quan tâm và cầu nguyện cho các ông mỗi ngày. Do đó việc bỏ đạo của ba người cuối trong nhóm 500 binh sĩ trở thành tin buồn khá lớn lao cho tập thể. Có người không tin các ông đã đạp lên Thánh Giá, dù các ông hoàn toàn nhận lỗi nơi mình, họ bảo rằng chắ các quan dùng thuốc mê khiến các ông mất sáng suốt. Thế là ba ông sau khi xưng tội, bàn bạc với nhau và cương quyết lên tỉnh để tuyên xưng đạo một lần nữa.

Lòng can đảm hy hữu

Đến tỉnh, ba ông vào thẳng dinh quan Tổng đốc trình bày nguyện vọng của mình : "Thưa quan, đạo Thiên Chúa là đạo thật, Chúa chúng tôi thờ là Đấng quyền năng vô biên. Mấy ngày trước chúng tôi đã chót dại qúa khóa. Nay chúng tôi xin trả tiền lại cho quan để được giữ đạo Chúa thật lòng". Quan nghe nói tức giận chửi mắng ba ông thậm tệ, rồi ra lệnh giam vào ngục để tìm cách dụ dỗ như lần trước. Nhưng vì quan đã báo cáo lên vua việc ba ông bỏ đạo lên muốn bỏ qua chuyện, chỉ truyền đánh đòn ba ông rồi rồi duổi ra khỏi dinh. Số tiền các ông trả, quan trao cho hưởng chức ba làng của các ông.

Trở về nhà ba ông cầu nguyện liên lỉ và tiếp tục bàn bãc với nhau, dự tính vào tận kinh đô để tuyên xưng niềm tin. Ba ông hỏi ý kiến cha Tuyên và cha Năng. Các ngài nói tùy ý, chứ tội các ông không buộc phải đến bằng cách đó. Cha Chính Jimenô Lâm (sau này làm Giám Mục giáo phận Đông Đàng Ngoài) nghe tin thì viết thư tán thành sáng kiến đó. thế là ba ông ngổi lại với nhau viết một lá đơn cho vua, bày tỏ niềm tin của mình. Ông Đạt cũng ký vào đơn, nhưng vì đang phải công tác với đội binh nên ở lại. Hai ông Huy và Thể có cơ hội tức tốc khăn gói đi vào Huế.

Trước khi lên đường, cha Tuyên nhắc bảo hai ông phải trông cậy vào Chúa hơn là sức mình, phải cầu nguyện nhiều mới có thể can đảm làm chứng cho đạo Chúa. Hai vị xưng tội một lần nữa, chào giã biệt họ hàng thân thích và xin mọi người góp lời cầu nguyện. Sau 20 ngày đi bộ, các ông vào tới kinh đô đầu tháng 05.1839. Một người con ông Huy mới 16 tuổi cũng theo chân người cha để nghe ngóng tin tức.

Theo thủ tục khi đó, ba ông đến nộp đơn ở tòa Tam Pháp chờ đợi. Các quan nhận đơn, nhưng lại bỏ qua không trình lên vua. Trong thời giam chờ đợi, các ông ở trọ nhà bà Đông, cũng là một tín hữu ở Huế. Sau đó hai vị làm thêm một lá đơn thứ hai, nhưng tòa Tam Pháp vẫn im tiếng làm ngơ như cũ. Thế là các ông phải tính đến một kế hoạch táo bạo hơn. Nhân dịp vua Minh Mạng ngự giá đi dạo trong thành phố. Hai ông đón đường để trình đơn thẳng lên nhà vua. Đọc xong vua nổi giận truyền tống giam cả hai, và giao cho các quan bộ hình cứu xét.

Khổ hình và vinh phúc.

Các quan ở kinh đô khuyến dụ, hứa hẹn nhiều điều, rồi trá tấn đánh đập, nhưng hai nhân chứng vấn cứ trước sau như một, tuyên xưng là những binh sĩ có đạo. Tướng quân Lê Văn Đức ở Nam Định trở về, vì đã từng biết sự gan dạ của hai ông nên nói : "Đừng hy vọng thuyết phục bọn này, đánh chúng chỉ mỏi tay thôi". Một hôm quan hỏi tại sao trong đơn còn có chữ ký của Đinh Đạt, hai ông trả lời : " Thưa quan, anh Đạt cũng không chịu quá khóa, nhưng bận việc quân nên không đi với chúng tôi được. Anh ấy dặn : chúng tôi thế nào, anh ấy cũng như vậy".

Các quan trình bày sự việc lên vua để lãnh ý. Sau đó, theo lệnh vua, quan cho bày trước mặt hai ông mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói : "Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ra biển". Hai ông bày tỏ ý muốn chọn gươm. Vua Minh Mạng nổi giận truyền viết bản án sau:

"Trước đây ta đã làm án tử hình, nhưng ta thương chẳng muốn giết, nào ngờ chúng đã mê dại chẳng biết sự phải lẽ. Ta đã mở lối cho chúng ăn năn và chừa cải, song hai tên tội phạm cố chấp theo Gia Tô tả đạo, lại bỏ việc quân vào kinh nộp đơn. Thật là bọn kiêu ngạo đáng khinh, đáng ghét, chẳng thể để sống được nữa. Vậy hai tội phạm Phan Viết Huy và Bùi Đức Thể phải cho lính đem re biển lấy rìu lớn chặt ngang lưng rồi bỏ xác xuống biển, để ai lấy biết tỏ điều răn cấm …"

Phần sau bản án, vua giao cho Trịnh Quang Khanh việc điều tra ông Đinh Đạt và dặn trình báo lại. Ngày 13.06.1839, quân lính điệu hai ông ra cửa Thuận An thi hành án lệnh. Họ dẫn hai ông lên thuyền chèo ra giữa biển, đặt một Thánh Giá ngay trong thuyền, để thử xem các ông có đổi ý đạp lên chăng. Khi thất vọng, họ trói hai ông vào cột chèo, thay vì chặt ngang lưng, họ chặt đầu trước rồi bổ thân ra làm bốn, ném xuống biển làm mồi cho cá.

Bổ làm tám cũng được

Về phần ông Đinh Đạt, sau khi đi công tác trên tỉnh, ông thu xếp việc nhà và chuẩn bị tâm hồn đón nhận cái chết anh hùng. Cuối tháng 06.1839, một người bạn đồng đội đến báo tin ông Huy và Thể đã bị hành hình, ông đạt tỏ ra rất vui mừng, báo tin cho cha mẹ, bà con, từ giã mọi người. Ông không tính chuyện chạy trốn, chỉ chờ đợi ngày bị bắt. Vợ con khóc lóc, ông lựa lời an ủi và quả quyết Chúa đã lo liệu quan phòng mọi sự. Khi quân lính đến vây bắt, ông lánh mặt ít giờ để xưng tội và rước lễ lần cuối, rồi thản nhiên đi theo họ lên tỉnh. Dọc đường ông sốt sắng lần chuỗi, suy niệm các mầu nhiệm kinh Mân Côi.

Đến Nam Định, lính đưa ông vào gặp Trịnh Quang Khanh, quan Tổng đốc bảo ông : "Hai bạn của ngươi vì cuồng dại không chịu bỏ đạo tà, nên bị chém làm tư quăng xuống biển. Còn ngươi, nếu khôn thì chối bỏ thứ tà đạo đi để về với vợ con". Ông Đạt thẳng thắn thưa : "Tôi đã chịu nhiều cực hình vì đức tin, nay tôi sẵn sàng chịu thêm nhiều cực hình khác nữa. Hai bạn tôi đã được phúc trọng, quan cứ chém tôi làm tám khúc cũng được". Quan biết có đe dọa cũng không thành công, liền lập án gửi về kinh xin xử giảo.

Ông Đạt khi nghe đọc bản án thì rất bình tĩnh, vui mừng đón nhận cái chết gần kề. Ngày 18.07.1839 ông theo lính ra pháp trường Bảy Mẫu, vừa đi vừa chăm chú đọc kinh. Đến nơi xử, ông quỳ tr6en chiếu cầu nguyện giây lát, rồi chờ quân lính tháo gông trên cổ, ông nằm xuống. Lý hình đứng hai bên dùng giây xiết cổ ông cho đến khi tắt thở. Tín hữu làng Phú Nhai thương lượng với quan quân đem thi hài vị anh hùng tử đạo về an táng tại khu đất của người anh cả vị anh hùng. Sau hài cốt của ông Đạt được lưu giữ tại nhà thờ Phú Nhai.
Ngày 27.05.1900, Đức Lêo XIII suy tôn ba vị anh hùng tử đạo : Augustinô Phan Viết Huy, Nicôlas Bùi Đình Thể và Đaminh Đinh Đạt lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
 

langvuon

khoai nướng
Ðề: Lịch Phụng Vụ 6/2011

Thứ Hai 13 X
Thứ Hai sau Chúa Nhật thứ XI Mùa Thường Niên
THÁNH ANTÔN
2Cor 6: 1-10 Tv 98: 1, 2-3, 3-4 Mt 5: 38-42

Thứ Ba 14 X
Thứ Ba sau Chúa Nhật thứ XI Mùa Thường Niên
2Cor 8: 1-9 Tv 146: 2, 5-6, 7, 8-9 Mt 5: 43-48

Thứ Tư 15 X
Thứ Tư sau Chúa Nhật thứ XI Mùa Thường Niên
2Cor 9: 6-11 Tv 112: 1-2, 3-4, 9 Mt 6: 1-6, 16-18

Thứ Năm 16 X
Thứ Năm sau Chúa Nhật thứ XI Mùa Thường Niên
2Cor 11: 1-11 Tv 111: 1-2, 3-4, 7-8 Mt 6: 7-15
Kính thánh tử đạo Đaminh Nguyên, Đaminh Nhì, Đaminh Mạo, Vinh Sơn Tường và Anrê Tường, Giáo dân

Thứ Sáu 17 X
Thứ Sáu sau Chúa Nhật thứ XI Mùa Thường Niên
2Cor 11: 18, 21-30 Tv 34: 2-3, 4-5, 6-7 Mt 6: 19-23
Kính thánh tử đạo Phêrô Đa, Giáo dân

Thứ Bảy 18 X
Thứ Bảy sau Chúa Nhật thứ XI Mùa Thường Niên
2Cor 12: 1-10 Tv 34: 8-9, 10-11, 12-13 Mt 6: 24-34

Ngày 13 tháng 06
THÁNH ANTÔN PAĐUA (St. Anthony of Padua)
Linh mục, tiến sĩ Hội Thánh
“ Muôn dân tường thuật sự khôn ngoan của các thánh, và Giáo Hội loan truyền lời ca tụng các Ngài: tên tuổi các Ngài sẽ muôn đời tồn tại”( Hc 44, 14-15 ).Thánh Antôn Pađua qua đời mới có 36 tuổi, nhưng Ngài đã nổi tiếng về nhân đức ,phép lạ và những tư tưởng của Ngài.
MỘT LÝ TƯỞNG. MỘT CUỘC ĐỜI :
Thánh Antôn Pađua được sinh ra trong một gia đình quyền quí, đạo đức và thánh thiện tại Lisbone thủ đô nước Bồ Đào Nha vào năm 1195. Thánh nhân được hấp thụ một nền giáo dục đạo đức và đầy bác ái, nên Ngài sớm nhận ra tiếng Chúa mời gọi. Thánh nhân xin gia nhập Dòng thánh Augustinô và được nhà Dòng, Bề Trên cho lãnh nhận sứ vụ linh mục. Tuy nhiên, thánh nhân thích sống chiêm niệm, sống khắc khổ, khiêm tốn, Ngài ước muốn được đi truyền giáo cho dân ngoại và mong muốn được chết tử vì đạo, chính vì thế thánh nhân xin gia nhập Dòng anh em hèn mọn Phanxicô vào năm 1220. Thánh nhân cầu được ước thấy vì các Bề Trên chấp nhận lời cầu xin của Ngài, sai Ngài đi truyền giáo cho thổ dân Sarrasins bên Phi Châu. Nhưng ý Chúa thật nhiệm mầu, thánh nhân khi vừa tới Phi Châu đã ngã bệnh nặng và phải quay trở về chữa bệnh. Trên đường về lại quê hương, tầu của Ngài bị bão đánh dạt vào đảo Sicile thuộc nước Ý Đại Lợi, Ngài tới cư ngụ tại nhà Dòng ở Monte Paulo.
CÁI TÀI CHÚA BAN CHO THÁNH NHÂN:
Nhờ tài lợi khẩu, nhờ gương sáng đạo đức và thánh thiện, Ngài được các Bề Trên tin tưởng, tín nhiệm sai đi giảng khắp nơi và lo công việc đào tạo, giáo dục các tu sĩ trong Dòng. Chúa ban sức mạnh cho thánh nhân, Chúa Thánh Thần luôn tác động tâm hồn thánh nhân, nên lời giảng của Ngài luôn luôn có sức thu hút, lôi cuốn nhiều người. Chúa củng cố lời giảng của thánh Antôn Pađua bằng nhiều phép lạ kèm theo. Thánh nhân đã có ảnh hưởng rất lớn tại Ý, tại Pháp, thánh nhân làm việc không mệt mỏi, không ngơi nghỉ. Ngài được đặt tên là “ Hòm Bia Giao Ước” và “ Cái búa của bọn lạc giáo” đúng như lời sách thánh:” Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho muôn người nên công chính, sẽ chiếu sáng như những vì sao, đến muôn thuở muôn đời”( Đn 12, 3 ).
CHÚA THƯỞNG CÔNG THÁNH ANTÔN PAĐUA:
Bông hoa tươi đẹp, Chúa ngắt về với Ngài để thánh nhân sống bên Chúa ngày 13 tháng 6 năm 1231. Thánh nhân ra đi trong an bình, trở về với Chúa khi Ngài mới tròn 36 tuổi. Thánh nhân rất nổi tiếng về các nhân đức và các phép lạ Ngài đã làm. Năm 1946, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã tôn phong thánh Antôn Pađua làm tiến sĩ Hội Thánh.
“Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã ban cho dân Chúa một nhà giảng thuyết lừng danh và cũng là người cứu giúp những ai nghèo khổ, đó là thánh linh mục Antôn. Xin nhận lời thánh nhân chuyển cầu, cho chúng con biết trung thành tuân giữ giáo huấn của Đức Kitô, để được nâng đỡ trong những lúc ngặt nghèo”
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT





Ngày 16 tháng 06
5 Thánh Tử Đạo Việt Nam
Đa-Minh Nguyen, Đa-Minh Nhi, Đa-Minh Mạo, Vinh-Sơn Tường, Anrê Tường

Niềm tin được chứng giám

Cuộc đời năm vị tử đạo Anrê Tường, Vinh Sơn Tương, Đaminh Mạo, Đaminh Nhi và Đaminh Nguyên tưởng như đã được trình bày cụ thể trong thư gửi giáo đoàn Do Thái:

“Có những người vì đức tin bị căng nọc, bị đánh đòn, họ đã từ khước giải thoát ngõ hầu được hưởng sự sống hoàn hảo hơn. Có những người chịu thử thách, chịu sự sỉ nhục, chịu đòn vọt, họ còn bị xiềng xích và tù ngục. Họ bị ném đá, bị cưa sẻ, bị thiêu đốt, bị hiến đạp, bị hành hạ. Hết thảy những người đó đã được thiên Chúa chứng giám nhờ đức tin” (Dt 11, 35-37, 39).

Chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi chiếu chỉ Phân Sáp, năm giáo hữu đồng hương này đã đồng lao cộng khổ, để cuối cùng đồng vinh quang trên nước trời. Thiên Chúa đã chứng giám cho niềm tin của họ.

Số phận gắn bó với nhau.

Dưới thời vua Tự Đức, xứ Lục Thủy, tỉnh Nam Định, giáo phận Trung Đàng Ngoài, có 13 họ đạo nằm trong chín làng xã. Do đó làng Ngọc Cục bao gồn hai họ đạo Ngọc Cục (Bổn mạng lễ Truyền Tin) và họ Phú Yêu (Bổn mạng thánh Vinh Sơn).

Ba ông Anrê Tường, Vinh Sơn Tương và Đaminh Nguyễn Đức Mạo. Thuộc họ Phú Yêu. Anrê Tường sinh năm 1812 và Vinh Sơn Tương sinh năm 1814 là hai anh em ruột. Thân phụ là ông Đaminh Tiên làm Trùm họ và thân mẫu là bà Maria Gương. Ông Tương tuy thua anh hai tuổi, nhưng đã giữ chức Chánh Tổng. Còn Đaminh Nguyễn Đức Mạo sinh năm 1818, con ông Đaminh Giỏi làm Xã trưởng và bà Maria Nhiên. Khi bị bắt ông được 44 tuổi và làm Hương quản lo an ninh trâït tự trong làng.

Hai ông Đaminh Nguyên và Đaminh Nhi thuộc họ Ngọc Cục. Đaminh Nguyên sinh năm 1800, con ông Đaminh Duệ làm Xã trưởng. Khi bị bắt ông đang làm Chánh trương xứ Lục Thủy, con trai ông Đaminh Trình (35 tuổi) cũng bị bắt và tử đạo sau ông một ngày. Còn Đaminh Nhi, người trẻ nhất trong nhóm, sinh năm 1822, con ông Đaminh Vương và bà Catarina Vân.

Năm ông đều đã lập gia đình, đều là những tín hữu nông gia khá giả và tốt bụng, nên được dân làng rất kính nể và tôn trọng. Riêng Đaminh Nguyên nhờ có nghề thuốc nên có nhiều cơ hội thực thi đức bác ái và ngay cả với những anh em ngoại giáo trong vùng. Không rõ trước khi bị bắt các ông có thân thiết với nhau không, nhưng với một số điểm tương đồng trên, các ông đã là những đối tượng đầu tiên được lưu ý khi chiếu chỉ Phân sáp được áp dụng tại làng Ngọc Cục.

Chiếu chỉ Phân sáp do vua Tự Đức ban hành ngày 05.05.1861 gồm năm nội dung chính: Phân tán các làng Công Giáo; sáp nhập họ vào ca làng ngoại giáo, tịch thu tài sản ruộng nương; thích tự hai bên má những người theo đạo; rồi giao cho lương dân quản thúc. Trong bối cảnh đó, năm ông đã bị bắt ngày 14.09.1861. Quan phủ Xuân Trường ra lệnh ép các ông phải chà đạp Thánh Giá. Nhưng các môn đệ Chúa Kitô đã khẳng khái biểu lộ niềm tin của mình, cương quyêt khước từ hành vi chối đạo, xúc phạm đến Chúa. Thế là quan giận dữ đày các ông sang làng Bạch Cúc, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

Tù đày và lời chứng.

Tiếp theo là bảy tháng rưỡi bị giam cầm, cổ mang gông, chân tay bị xiềng xích, bị đánh đòn nhiều lần giã man, nhưbng năm vị anh hùng vẫn kiên trung với đạo Chúa. Cũng theo chiếu chỉ Phân sáp này, quân lính dùng dùi sắt nung đỏ khắc chữ trên mặt các chứng nhân của Chúa, một bên má là chữ “Tả Đạo”, bên kia là tên làng xã. Nói sao cho xiết nỗi tủi nhục đau đớn của các ông. Đau vì nhức nhối khủng khiếp và vết pỏhng trên mặt lâu ngày mới khỏi, nhục vì phải trình bày cho mọi người thày dấu hiệu chế diễu khinh mạn niềm tin đạo giáo. Nhưng tất cả các ông nhẫn lại chịu đựng, miễn tấm lòng vẫn trung thàng với đức tin chân chính.

Để kín múc ơn trợ lực của Thiên Chúa, hàng ngày các ông quây quần bên nhau cầu nguyện, đọc kinh Mân Côi, cùng nhau dâng lên Chúa lời tuyên xưng tuyệt đối của mình vào bàn tay quan phòng, và phó dâng đời mình cho thánh ý ngài. Có thể nói, chính nhờ những lời nguyện sốt sắng phát xuất từ đáy con tim đó, các ông đã tìm được nghị lực và can đảm lướt thắng mọi gian nan thử thách. Ngoài ra, các ông còn gíup nhau sám hối những lỗi lầm, và tự nguyện hãm mình bằng chay tịnh mỗi tuần ba ngày để đón chờ hồng phúc tử đạo.

Trong bức thư đề ngày 02.08.1862, linh mục Estévez Nam đã trình bày cơn sốt bắt đạo tại Nam Định như sau:

“Trong tỉnh Nam Định, người Công Giáo bị đuổi khỏi nhà, quân lính chói từng năm người một, họ chỉ được đem theo mấy nắm gạo đủ ănchừng hai ngày. Có 300 giáo hữu đang bị giam, Tổng đốc Nguyễn Đình Tân ra lệnh cấm tiếp tế lương thực và chỉ mấy ngày sau, 240 người gục chết, những người còn lại hấp hối chờ chết. Ngày 18.05.1862, ông ra lệnh chém 21 người, ngày 22 chém 43 người, ngày 26 chém 67 người. Ngày 30.05 ông tuyên trói 112 người buông thả sông, rồi hôm sau đến lượt 112 người khác.

“Việc làm của Tổng đốc được các quan phủ huyện noi theo. Người công giáo phải chết hàng trăm, kẻ bị chém, người chịu thiêu sinh trong ngục, hoặc có ai tháo chạy ra ngoài được, cũng bị lý hình cầm gươm dí họ vào lửa cho đến chết. Có lần 150 người bị xử một lúc, lý hình vì không thành thạo, chém đi chém lại chỉ giết được 20 người, số còn lại lính đẩy xuống sông. Nhưng sông lại nho, một số người sống sót lội vào bờ, quân lính tóm bắt, rồi cứ hai người một, buộc vào nhau ném xuống giếng sâu chết cả”.(1).

Riêng với năm chiến sĩ đức tin Anrê Tường, Ving Sơn Tương, Đaminh Mạo, Đaminh Nguyên và Đaminh Nhi, quan vẫn còn nhân nhượng. Ngày 15.06.1862, một lần nữa, quan yêu cầu các ông chà đạp Thánh Giá, các ông lại từ chối. Quan liền sai lính trói cả năm ông đem ra phơi nắng suốt cả ngày không cho ăn uống. Sáng hôm sau, quan đổi chiến thuật, lấy lời ngon ngọt dụ dỗ các ông chối đạo. Mặc dù đói khát và mệt lả, ông Đaminh Mạo đại diện cho anh em khẳng khái trả lời: “Sao quan lại dụ dỗ chúng tôi như vậy ? Chắc quan tưởng chúng tôi là con nít khiếp sợ đáu đớn, nên quan khuyên dụ chúng tôi xúc phạm Thiên Chúa ư ? Nếu chà đạp Thánh Giá để khỏi bị bắt và bị đánh đập thì chúng tôi đã làm ngay ở làng quê chúng tôi rồi, dại gì phải trải qua biết bao cực khổ nơi đây. Bây giờ quan cứ làm theo ý quan, chúng tôi không bao giờ bỏ đạo đâu”.

Đón phúc vinh quang.

Tức giận trước những lời trên, quan truyền lệnh xử tử ngay tức khắc năm vị tôi tớ kiên trung của Chúa. Quân lính điệu các ông ra pháp trường Bạch Cốc, tỉnh Nam Định. Các chứng nhân đức tin vui mừng phó thác linh hồn trong tay Chúa, cầu xin ngài ban cho đủ sức mạnh chiến thắng cơn thử thách cuối cùng. Quả thật các ông đã tỏ ra can đảm phi thường. Ngoài ông Đaminh Nhi, cả bốn vị kia đều yêu cầu lý hình, thay vì chém đầu một nhát thì xin họ chém ba nhát để các ông tỏ lòng kính Chúa Ba Ngôi.

Hôm đó là ngày 16.06.1862. Thi thể năm vị anh hùng tuân giáo được gia đình và các bạn hữu chôn ngay nơi tử đạo, năm sau thì cải táng về nhà thờ họ quê làng.

Ngày 29.04.1951, Đức Thánh Cha Piô XII đã long trọng suy tôn năm vị tử đạo Anrê Tường, Vinh Sơn Tương, Đaminh Nguyễn Đức Mạo, Đaminh Nguyên và Đaminh Nhi lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh

Ngày 17 tháng 06
Thánh Phêrô ĐA
Thợ mộc - (1802 – 1862)

Đức tin kiên vững.

Thánh Phêrô Đa là vị tử đạo cuối cùng trong 117 vị chứng nhân đức tin tại Việt Nam đã được Giáo Hội tôn vinh. Cái chết của ngài chấm dứt một giai đoạn cam go và khai mạc một giai đoạn thanh bình mới của Giáo Hội Việt Nam.

Tuy chỉ là một tín hữu tầm thường thiếu học, sinh trưởng trong một gia đình lao động nghèo khó, nhưng lòng dũng cảm và đức tin kiên vững của ông thợ mộc Phêrô Đa không thua gì các vị mục tử của mình : chấp nhận hy sinh trọn vẹn, kể cả chính mạng sống, để giữ lòng trung tín với Đức Kitô.

Đời sống đạo đức.

Phêrô Đa chào đời khoảng năm 1802 trong một gia đình lao động tại làng Ngọc Cục, xứ Lục Thủy, tỉnh Nam Định, thuộc giáo phận Trung Đàng Ngoài. Thân phụ cậu là một Kitô hữu, nhưng thân mẫu lại là một người ngoại đạo. Tuy thế, cậu Đa đã được đón nhận bí tích rửa tội ngay từ nhỏ, và được giáo dục chu đáo niềm tin Kitô.

Ông Phêrô Đa theo nghề thợ mộc và đã lập gia đình. Ông là một gia trưởng gương mẫu, lưu tâm săn sóc con cái và hướng dẫn chúng bằng chính đời sống thánh thiện của mình. Đàng khác ông rất nhiệt tình với việc chung và nhận làm ông Từ phụ trách kéo chuông và dọn đồ lễ tại thánh đường giáo xứ.

Sau chiếu chỉ phân sáp, ông Phêrô Đa bị bắt vào khoảng 60 tuổi, và bị giải về phủ Xuân Trường với nhiều Kitô hữu khác. Sau sáu ngày bị giam ông được giải đến Quá Linh. Tại đây ông chịu nhiều cuộc tra tấn giã man và nhiều khổ hình kinh khiếp, nhưng vị anh hùng luôn bền chí chịu đựng, không than van và nhất định không bước qua thánh Giá. Khi biết chắc không thể làm khuất phục, quan liền kết án thiêu sinh ông Phêrô Đa cùng với một số chứng nhân đức tin khác.

Vinh phúc người tôi trung.

Ngày 17.06.1862, vị tôi tớ trung kiên Phêrô Đa bị dẫn đến nơi xử án. Trên đường đi, ông biểu lộ nét hân hoan vui mừng. Ông bình thản cầu nguyện và phó dâng mọi sự trong tay quan phòng của Chúa. Đồng thời ông khấn xin Chúa cho mình đủ can đảm chiến thắng cực hình sau cùng vì danh Thày Chí Thánh.

Khi ngọn lửa thiêu đốt sắp tàn, quân lính thấy ông hình như vẫn còn sống, liều vung đao chém bay đầu vị tử đạo. Thế là thánh Phêrô Đa, người giáo hữu kiên cường, bất khuất, có thể nói đã hy sinh vì chân lý bất diệt đến hai lần : vừa bị thiêu đốt, vừa bị chém đầu. Thi hài của người tôi trung Đức Kitô được giáo hữu chôn ngay tại pháp trường. Năm sau giáo hữu lại cải về an táng tại quê nhà.
Ngày 29.04.1951, người thợ mộc làng Ngọc Cục, Phêrô Đa, được Đức Piô XII suy tôn lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
 

langvuon

khoai nướng
Ðề: Lịch Phụng Vụ 6/2011

Chúa Nhật 19 Tr
Chúa Nhật thứ XII Mùa Thường Niên
LỄ CHÚA BA NGÔI
Thánh Romuald, Tu Viện Trường
Xh 34: 46, 8-9 Đn 3: 52, 53, 54, 55 2 2Cor 13: 11-13 Ga 3: 16-18

Thứ Hai 20 X
Thứ Hai sau Chúa Nhật thứ XII Mùa Thường Niên
St 12: 1-9 Tv 33: 12-13, 18-19, 20, 22 Mt 7: 1-5

Thứ Ba 21 Tr
Thứ Ba sau Chúa Nhật thứ XII Mùa Thường Niên
Lễ nhớ Thánh Aloysius Gonzaga, Tu Sĩ
St 13: 2, 5-18 Tv 15: 2-3, 3-4, 5 Mt 7: 6, 12-14

Thứ Tư 22 X
Thứ Tư sau Chúa Nhật thứ XII Mùa Thường Niên
Thánh Tôma More, Tđ, Thánh Phaolôinô thành Nola, Gm, Thánh Gioan Fisher, GmTđ
St 15: 1-12, 17-18 Tv 105: 1-2, 3-4, 6-7, 8-9 Mt 7: 15-20

Thứ Năm 23 X
Thứ Năm sau Chúa Nhật thứ XII Mùa Thường Niên
St 16: 1-12, 15-16 Tv 106: 1-2, 3-4, 4-5 Mt 7: 21-29

Thứ Sáu 24
Tr
Thứ Sáu sau Chúa Nhật thứ XII Mùa Thường Niên
SINH NHẬT THÁNH GIOAN TẨY GIẢ, Lễ Trọng
St 17: 1, 9-10, 15-22 Tv 128: 1-2, 3, 4-5 Mt 8: 1-4

Thứ Bảy 25 X
Thứ Bảy sau Chúa Nhật thứ XII Mùa Thường Niên
St 18: 1-15 Tv 1: 46-47, 48-49, 50, 53, 54-55 Mt 8: 5-17

THIÊN CHÚA BA NGÔI

Giáo Hội mừng lễ Chúa Ba Ngôi để giúp cho mọi người Kitô hữu thấy hình ảnh của một Thiên Chúa duy nhất: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Sự duy nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa nói lên tình yêu,bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu ( 1 Ga 4, 8 ). Đây là tín điều căn bản của đạo công giáo chúng ta. Tại sao Thiên Chúa lại có Ba Ngôi ? Ba Ngôi sao không là ba Chúa mà lại chỉ có một Chúa duy nhất mà thôi ? Đây là một điều dễ hiểu đối với những người có lòng tin và không dễ dàng chút nào đối với những người muốn dùng lý trí của mình để tìm hiểu về Chúa Ba Ngôi.

BA NGÔI : CHÚA CHA, CHÚA CON VÀ CHÚA THÁNH THẦN LÀ MỘT THIÊN CHÚA DUY NHẤT:

Sách Giáo Lý Công Giáo dạy chúng ta rằng:” Chúng ta gọi Ngôi thứ nhất là Cha, Ngôi hai là Con, Ngôi ba là Thánh Thần. Nếu theo sự nghĩ và theo quan niệm của loài người thì Cha và Con có sự hơn kém nhau, ít nhất là Cha cũng phải có trước con, tuổi nhiều hơn con. Ở nơi Thiên Chúa thì không như vậy : ba Ngôi bằng nhau về mọi phương diện, không có ngôi nào hơn, ngôi nào kém. Lý do là vì ba Ngôi cùng chung một bản tính duy nhất, nên không thể có sự hơn kém nhau được. Ngôi Cha hằng có từ thuở đời đời, thì Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần cũng vậy. Thánh Gioan đã viết:” Thiên Chúa là Tình Yêu “( 1 Ga 4, 8 ). Chính vì yêu thương, Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh của Người. Nhưng con người lại phản bội Đấng tạo thành nên mình, Thiên Chúa không bỏ rơi loài người mà lại sai Con Một là Đức Giêsu Kitô xuống thế để cứu chuộc con người. Thiên Chúa gởi Thánh Thần xuống để đổi mới con người, tái tạo con người trở nên con người mới hầu dẫn đưa họ về hưởng phúc trường sinh Nước Trời. Đó là mầu nhiệm Tình Yêu mà Ba Ngôi Thiên Chúa dành cho con người, dành cho loài người. Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm siêu nhiên trí khôn con người không thể nào khám phá, không thể nào tìm hiểu được. Chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta biết mầu nhiệm cao cả đó. Ngay khi Thiên thần Gabrien truyền tin cho Trinh Nữ Maria chịu thai và sinh ra Chúa Giêsu, Thiên thần đã nói cho Trinh Nữ biết Trinh Nữ sẽ được gọi là Con Đấng tối cao Con Thiên Chúa

( Lc 1, 30-35 ). Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan, các tầng trời mở ra, Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự trên đầu Chúa Giêsu, và có tiếng Chúa Cha từ trời phán:” Này là Con Ta yêu dấu đẹp lòng Ta mọi đàng “. Cả Ba Ngôi hiện diện lúc này, Chúa Thánh Thần lấy hình chim câu hiện xuống ( Mt 3, 16-17 ). Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Ngài cũng thường nói đến Chúa Cha :” Cha Ta hằng làm việc, thì Ta cũng làm việc. Quả thật Ta bảo các ngươi, con không thể tự mình làm điều gì, nhưng mọi sự đều vì đã trông thấy Cha làm “( Ga 5, 19 ). Nơi khác Chúa nói :” Ta và Cha là Một “( Ga 10, 30). Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần nói đến Chúa Thánh Thần : “ Nếu các con yêu mến Thầy, các con sẽ giữ lệnh truyền của Thầy và Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con một Đấng phù trợ khác để Ngài ở với các con luôn mãi “ ( Ga 14, 15 ). “ Khi Đấng bầu chữa đến, Đấng Ta sẽ gửi đến từ nơi Cha, là thần khí sự thật, từ nơi Cha phát xuất ra, Ngài sẽ làm chứng về Ta “( Ga 15, 26 ). Và trước khi Chúa Phục Sinh về Trời, Chúa sống lại đã truyền cho các môn đệ :” Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần “ ( Mt 28, 19 ). Đây là mạc khải rõ ràng nhất về Chúa Ba Ngôi. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm duy nhất chỉ có thể hiểu được dưới ánh sáng của đức tin, của mạc khải .

BA NGÔI LÀM GÌ CHO CHÚNG TA ?:

Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một điều gì xa lạ, viễn vông. Ba Ngôi có liên hệ rất mật thiết đối với chúng ta. Thiên Chúa luôn chia sẻ, thông chia sự phong phú khôn lường của Người cho chúng ta, giúp chúng ta đi vào cõi thâm sâu thân mật của Ba Ngôi Thiên Chúa :” Những người Thiên Chúa đã biết trước thì Người cũng đã tiền định cho họ trở nên thuận hợp với hình ảnh của Con Người, để Người Con có thể trở thành trưởng tử của một đàn em đông đúc “ ( Rm 8, 29 ). Nhờ phép rửa tội, chúng ta được sinh vào gia đình của Thiên Chúa. Ngôi Cha là Đấng đã tạo dựng nên ta, Ngôi Con đã cứu chuộc ta. Chúa Thánh Thần là lửa mến đã thánh hóa ta bằng cách ban ân sủng cho ta. Vì được sinh ra và trở thành những người con trong gia đình Con của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã làm người để nâng chúng ta lên địa vị làm con của Người. Do đó, Chúng ta luôn có Ba Ngôi ngự trong linh hồn chúng ta. Ba Ngôi luôn ban những ơn cần thiết khi chúng ta cầu xin. Chúng ta phải kính mến, tôn thờ và cám tạ Ba Ngôi hằng ngày qua việc làm dấu thánh giá, đọc kinh sáng danh và kinh tin kính.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp mọi người chúng con biết tôn trọng đền thờ linh hồn là nơi Chúa Ba Ngôi ngự trị.

Xin tăng thêm đức tin và củng cố đức tin cho chúng con để chúng con tin tưởng tuyệt đối vào sự duy nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa và hiểu ý Thiên Chúa để tuân theo Lời của Ngài : “ Thần khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì “ ( Ga 6, 63 ).

Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Chúa đã sai Con Một là Lời chân lý và sai Thánh Thần, Đấng thánh hóa muôn loài đến trần gian mạc khải cho chúng con biết mầu nhiệm cao vời của Chúa. Xin cho chúng con hằng tuyên xưng đức tin chân thật là nhận biết và tôn thờ một Thiên Chúa Ba Ngôi uy quyền vinh hiển ( Lời nguyện nhập lễ, lễ Chúa Ba Ngôi ).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT


Ngày 19 tháng 06
THÁNH ROMUALĐÔ, (St.Romuald)
Viện phụ, ngày 19/7

Chúa nói:” Thầy bảo thật anh em: Anh em là những người đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, anh em sẽ được gấp bội và được hưởng sự sống đời đời làm gia nghiệp”( Mt 19, 27-29 ). Thánh Romualđô đã từ bỏ mọi vinh hoa, phú quí, đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu, Ngài đáng được hưởng phần thưởng nước trời.

CÁI THƯỜNG TÌNH ĐÃ TRỞ NÊN CÁI ÍCH LỢI CHO THÁNH NHÂN:

Thánh Romualđô được sinh ra trong một gia đình quyền uy thế giá. Cha mẹ Ngài là dòng dõi quí tộc bên nước Ý. Từ tuổi trưởng thành, Romualđô đã thích săn bắn thú rừng, đã thích gần gũi thiên nhiên,núi đồi, cây cỏ. Chính những cuộc săn đuổi thú rừng hết núi này qua đồi nọ, hết suối này qua bờ khe khác, đã giúp thánh nhân gần gũi thiên nhiên và cho Ngài cảm nghiệm sự thinh lặng, im lìm, tịch liêu của tâm hồn. Thiên Chúa có đường lối của Ngài: ý Ngài không ai dò thấu, dự định của Ngài chẳng ai thấy trước, không ai hiểu được. Đường của Chúa hoàn toàn kỳ diệu vì thế nhân buồn cảnh gia đình, thánh nhân đã trốn vào tu viện Bênêđitô ở Classa. Với thời gian tu tập tốt đẹp, các Bề Trên cho Ngài được mặc áo dòng. Thánh Romualđô mau chóng trở thành tu sĩ rất nhân đức và tiến triển trên đường thánh thiện. Ngài nên gương mẫu cho anh em trong tu viện noi theo, bắt chước. Thánh nhân càng lúc càng muốn sống giống Chúa Giêsu khónghèo, nên sau ba năm sống trong tu viện Bênêđitô, thánh nhân muốn tìm kiếm con đường nhiệm nhặt, khổ hạnh hơn nữa bên cạnh bậc thầy khả kính là Marinô. Thánh nhân và thầy Marinô mỗi tuần chỉ ăn có ba ngày:lương thực là một miếng bánh mì và một nắm đậu. Mỗi ngày hai thầy trò sánh bước dưới các lùm cây, tán lá, hát thánh vịnh và ca ngợi Chúa. Nhưng ý Chúa lại thúc đẩy Ngài trở về để cải tổ các tu viện Bênêđitô đang sa sút trầm trọng sau ba năm Ngài sống xa các tu viện với Thầy khả kính Marinô. Thánh nhân đã sửa đổi các tu viện và xây cất thêm cả trăm tu viện khác nữa. Nhiều người bỏ tu ra đời, nay lại theo Ngài sống đời khổ tu, chiêm niệm. Ma quỉ vì thấy Ngài sống thánh thiện, nhiệm nhặt với lề luật, nên tìm cách phá ngài, nhưng thánh nhân đã luôn chiến thắng chúng bằng lời cầu nguyện của mình. Một số anh em trong Dòng cũng khó chịu với Ngài vì Ngài yêu thương và sống bác ái đối với các người nghèo khó, neo đơn, cô quả...Theo lời yêu cầu của Hoàng Đế Othon III và của các Thầy trong Dòng, Ngài đã nhận làm Bề Trên tu viện Classa. Nhiều bậc vị vọng, nhiều ông hoàng đã xin đi tu vì cảm mến, khâm phục cách sống và các nhân đức của thánh nhân.

Ý CHÚA NHIỆM MẦU:

Thánh nhân ước ao được đi truyền giáo cho dân tộc Hung Gia Lợi, nhưng ý Chúa nhiệm mầu lại hướng Ngài đi một lối khác. Ngài tìm đến một nơi thanh vắng trong hoang địa để sống những ngày còn lại hết mình cho Thiên Chúa. Tại nơi thanh vắng mới này, thánh nhân hoàn toàn sống chiêm niệm, cầu nguyện, ăn chay và đánh tội. Biết được ý Chúa, thánh nhân đã xin một bá tước mảnh đất ở Apennin để thiết lập một tu viện. Apennin, nơi tu viện mới của thánh nhân bỗng trở nên trung tâm những tu viện của thánh Romualđô. Các Đức Thánh Cha kính nể, dành cho Ngài, các tu viện của Ngài nhiều đặc ân và bảo vệ, tán thành bộ luật Dòng của Ngài.

CHÚA THƯỞNG CÔNG THÁNH NHÂN và GIÁO HỘI TÔN VINH NGÀI:

Với nhiều công đức, với sự thánh thiện, khôn ngoan của thánh nhân. Chúa đã ban cho thánh Romualđô sống tới 120 tuổi. Tuổi đời cao là một hồng ân của Chúa như thánh vịnh 15, 5-6 đã viết:” Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con chính Ngài nắm giữ. Phần tuyệt hảo may mắn đã về con. Vâng, gia nghiệp ấy làm con thỏa mãn”. Thánh Romualđô đã ra đi về với Chúa trong an bình vào mùa hè năm 1027. Chúa đã đội mũ triều thiên cho Ngài và Giáo Hội đã mừng lễ Ngài vào ngày 19 tháng 6 mỗi năm.

Lạy Chúa, Chúa đã dùng thánh Romualđô để canh tân đời sống ẩn tu trong Hội Thánh. Xin cho chúng con biết từ bỏ chính mình mà theo chân Đức Kitô, hầu đạt tới hạnh phúc nước trời ( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Romualđô, viện phụ ).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT


Ngày 21 tháng 06
Thánh Aloysius Gonzaga
(1568-1591)

Thánh Aloysius là một người nổi tiếng thời bấy giờ vì ngài sinh trong một gia đình quý tộc, nhưng đời sống như thiên thần, và cái chết thật thánh thiện.

Aloysius là con cả của Hầu Tước Ferrante ở Castiglione nước Ý, phục vụ dưới triều Philip II của Tây Ban Nha. Cha ngài mong cho con mình trở nên một nhà lãnh đạo quân sự tài ba, do đó ngay từ khi bốn tuổi Aloysius đã được tự do tung tăng trong trại lính, làm quen với các vũ khí. Nhưng khi lên bảy, đời sống tâm linh Aloysius thay đổi lạ lùng và hàng ngày cậu đã đọc kinh sách, thánh vịnh và đặc biệt kính mến Ðức Maria. Lúc 13 tuổi, cùng với người em, Aloysius theo cha mẹ lên triều đình và cả hai giữ nhiệm vụ phục dịch cho Don Diego, thái tử người Asturias ở Tây Ban Nha. Càng nhìn thấy sinh hoạt triều đình bao nhiêu, Aloysius càng chán ngán bấy nhiêu và tìm cách khuây khỏa qua hạnh các thánh.

Chính trong thời gian này, khi nghe biết về công cuộc truyền giáo của các cha dòng Tên ở Ấn Ðộ, Aloysius đã có ý định đi tu và tập sống kham khổ cũng như tụ tập các trẻ em nghèo để dạy giáo lý cho chúng. Mơ ước đi tu của Aloysius phải trải qua bốn năm tranh đấu với chính người cha của mình cũng như sự dụ dỗ của rất nhiều chức sắc trong triều. Sau cùng, Aloysius đã chinh phục được tất cả và được nhận vào đệ tử viện dòng Tên lúc 17 tuổi.

Vì nhận thấy sức khỏe yếu kém của Aloysius, các cha giám đốc đã buộc Aloysius phải chấm dứt sự kham khổ, phải ăn nhiều hơn, phải sinh hoạt với các đệ tử khác và không được cầu nguyện ngoài những giờ ấn định. Aloysius được gửi lên Milan đi học, nhưng vì sức khỏe yếu kém nên đã phải trở về Rôma.
Vào năm 1587, Aloysius tuyên khấn. Ðược vài năm sau, trận dịch hạch tấn công Rôma. Các tu sĩ dòng Tên mở một bệnh viện của nhà dòng. Chính cha bề trên cũng như nhiều linh mục đích thân chăm sóc bệnh nhân. Dù sức khỏe yếu kém, Aloysius cũng tận tình phục vụ bệnh nhân và bị lây bệnh. Sau ba tháng bệnh hoạn, Aloysius đã từ trần ngày 21 tháng Sáu 1591, lúc ấy mới 23 tuổi.

Ðời sống thánh thiện của Aloysius được cha linh hướng Robert Bellarmine (sau này là thánh) minh xác. Và ngài được Ðức Giáo Hoàng Bênêđíctô XIII phong thánh năm 1726 và được đặt làm quan thầy các học sinh Công Giáo.

Lời Bàn
Thánh Aloysius dường như không thích hợp là quan thầy của các người trẻ trong một xã hội mà sự khổ hạnh chỉ tìm thấy trong các đội thể thao hay võ thuật. Có thể nào một xã hội luôn dư thừa và đầy tiện nghi lại tự ý khép mình vào kỷ luật? Ðiều đó chỉ có thể xảy ra nếu nó tìm thấy một lý do, cũng như Thánh Aloysius trước đây. Ðộng lực để Thiên Chúa thanh luyện chúng ta là phải cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa qua sự cầu nguyện.

Lời Trích
"Anh em thân mến, khi cầu nguyện chúng ta phải tỉnh thức và tha thiết với tất cả tâm hồn, sốt sắng cầu nguyện. Hãy gạt bỏ tất cả những ý tưởng trần tục, cũng như đừng để linh hồn chúng ta lo lắng về bất cứ điều gì ngoại trừ đối tượng của sự cầu nguyện là Thiên Chúa" (Về Kinh Lạy Cha, Thánh Cyprian).


Ngày 22 tháng 06
Thánh Tôma More tử đạo
(1478 –1525)

Thánh Tôma More sinh tại Luân Ðôn năm 1478. Ngài được gửi đi giúp việc cho Ðức Giám mục Morton. Năm 14 tuổi, ngài trở lại Oxford và tiếp tục việc học. Hai năm sau, cha ngài gọi về quê nhà và kèm riêng cho ngành luật. Trong khoảng thời gian đó, ngài sống tiết hạnh và hãm mình như một thầy dòng. Một ngày kia, ngài chợt muốn xin gia nhập đạo, nhưng ý tưởng đó vụt tắt và mùa xuân năm 1505, ngài đã bắt đầu cuộc sống đôi bạn. Tuy nhiên ngài vẫn duy trì nếp sống đạo đức và trở thành một người chính thống gương mẫu. Sau khi được vinh thăng đến bậc tướng, ngài bị nhiều người mua chuộc. Mặc dù bao nhiều lời quyến rũ, ngài vẫn cực lực phản đối cuộc hôn nhân giữa vua Henri VIII với cô Anna Bolen, nhất quyết không gia nhập Anh giáo ly khai. Ngài từ chối chức vụ Tổng Giám mục của Anh giáo. Nhà vua quá thất vọng bực tức, bắt giam ngài trong một nhà tù ở Luân Ðôn. Sau cùng, ngài đã chịu tử đạo ngày 6-7-1525. Khi nghe án tử, ngài mạnh dạn nói những lời này: “Tôi biết lý do tại sao tôi bị kết án, chỉ là vì tôi không ủng hộ, không chấp nhận cuộc hôn nhân bất chính thứ hai của nhà vua. Bỏ cuộc sống đời này, tôi được đi vào cuộc sống mới trong sự quan phòng của Chúa. Xin Chúa nhận lấy tôi, đó là lời cầu xin và là niềm hy vọng của tôi, xin Chúa chúc lành ban ơn cho Ðức Giám mục Fisher và cải hóa nhà vua. Xin Người hãy nhận lời tôi”. Và cuộc đời của thánh Tôma More đã chấm dứt trong sự thánh thiện và vinh quang.


Ngày 22 tháng 06
Thánh Paulinô
Giám mục thành Nola
(353–431)

Thánh Paulinô sinh tại Bordeaux nước Pháp năm 353 trong một gia đình quyền thế. Năm 378, ngài được cử làm lãnh sự ở Rôma và kết bạn với Thérèse. Mặc dù là người giàu có, nhưng sau khi đã chịu phép Rửa tội vào năm 389, ngài đã bán tất cả của cải để phân phát cho người nghèo khó. Ngài viết: “Tôi sẵn sàng mua lấy niềm hy vọng Nước Trời bằng mọi của cải trần gian”. Dứt bỏ mọi liên hệ phiền toái, tổ ấm gia đình, ngài sống hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài, nhất là sau khi đứa con độc nhất của ngài qua đời. Ngài sang Tây Ban Nha để tu thân và thụ phong linh mục ở đây.

Khi trở về quê hương, ngài đã xây cất một nhà dòng cạnh mồ thánh Fêlicita. Ngài và các bạn sống một cuộc sống khổ hạnh. Nhân đức ngài được đồn thổi khắp nơi. Ngài được phong làm Giám mục coi sóc giáo phận Nole năm 409. Hai mươi năm trường chu toàn chức vụ, ngài đã chăn dắt dân Chúa với tấm lòng nhân hậu, nêu cao ánh sáng luân lý trước kẻ ngoại và sống một cuộc đời đầy bác ái. Khi quân Goths chiếm đóng và bắt nhiều người làm nô lệ, nhà dòng tan rã, ngài bán tất cả gia sản để nuôi người nghèo và mua chuộc kẻ nô lệ. Nhưng khi quân Vandales tiến đến, ngài không còn gì để cho, nên đã hy sinh đi làm nô lệ thay cho con trai của một bà góa và được đưa sang Phi Châu. Cuối cùng, nhờ ơn Chúa, ngài được trao trả tự do, trở về Nola và an nghỉ trong Chúa năm 431.


Ngày 22 tháng 06
Thánh Gioan Fisher
Hồng y tử đạo

(1469-1535)

Thánh Gioan Fisher, Hồng y tử đạo thuộc dòng họ bá tước. Ngài thụ giáo tại Cambridge, sau làm giáo sư và khoa trưởng tại đây, đồng thời ngài còn là cha giải tội trong hoàng cung. Năm 1504, ngài được đặt làm Giám mục Giáo phận Rochester. Khi vua Henri VIII ngỏ ý muốn kết hôn với Anna Bolen, ngài hết sức ngăn cản và quyết liệt phản đối. Nhưng nhà vua vẫn làm theo ý định của mình. Ðức Giáo Hoàng Clêmentê VII ra vạ rút phép thông công, nhưng nhà vua lại tự phong cho mình là Giáo chủ Anh giáo. Riêng về phần Ðức Giám mục Fisher, người ta bắt giam ngài ở Luân Ðôn. Vì lòng nhiệt thành và nhân đức của ngài, Ðức Giáo Hoàng Phaolô III đặt ngài lên chức Hồng y, đồng thời cũng là dịp để cho nhà vua ăn năn hối lỗi. Nhưng trái lại, vua Henri VIII tuyên bố: “Ðức Giáo Hoàng có gửi mũ Hồng y nhưng Giám mục Fisher chẳng còn đầu để mà đội”. Ngay sau đó, ngài bị kết án tử hình. Ngài bằng lòng chấp nhận và cảm thấy yên lòng vì đã chu toàn bổn phận Chúa đã trao phó. Bước lên đoạn đầu đài, ngài cất cao bài Te Deum để tạ ơn Chúa. Trong khi hoan hỉ với niềm cứu thoát của Chúa, đầu ngài rơi xuống dưới lưỡi gươm của tên đao phủ. Ngài vĩnh viễn ra đi ngày 22-6-1535.


Ngày 24 tháng 06
THÁNH GIOAN TẨY GIẢ - Gioan Baotixita

“Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng về ánh sáng và chuẩn bị lòng dân sẵn sàng đón Chúa”( Ga 1, 6-7 ; Lc 1, 17 ). Hôm nay, Hội Thánh mừng ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng cứu thế.


TRUYỀN TIN CHO DACARIA LÀ MỘT SỰ LẠ LÙNG

Thánh Luca thuật lại cuộc truyền tin cho Dacaria trong Luca 1, 5-25 với đầy đủ chi tiết.

Kinh Thánh kể lại rằng ông Dacaria và bà Eâlisabét, vợ của ông, sống công chính trước mặt Thiên Chúa, nhưng vợ ông lại son sẻ, vả lại cả hai ông bà đều cao niên ( Lc 1, 5-7 ). Thánh Luca kể tiếp:” Dacaria là tư tế, đã rút trúng thăm để tế tự cho Thiên Chúa trong đền thờ “( Lc 1, 8-9 ). Trong khi Dacaria dâng hương trong đền thờ, dân chúng tất cả đều đứng ở ngoài và cầu nguyện (Lc 1, 10 ). Sự lạ xẩy ra là có sứ thần của Chúa hiện ra với ông Dacaria,đứng bên phải hương án ( Lc 1, 11 ). Dacaria bối rối, nỗi sợ hãi ập xuống trên ông ( Lc 1,12 ) và sự việc đã xẩy ra là sứ thần trấn an Dacaria, bảo ông:” Này Oâng Dacaria, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời Oâng cầu xin: bà Eâlisabét, vợ Oâng sẽ sinh cho Ông một đứa con trai, và Oâng phải đặt tên cho con là Gioan( Lc 1, 13) và “ Cậu bé này sẽ thành vĩ nhân trước mặt Chúa, và ngay khi còn trong lòng mẹ, Cậu đã đầy ơn Thánh Thần. Nhiều người sẽ được hoan hỷ ngày Cậu ấy chào đời”( Lc 1, 14-15 ). Tin Mừng của thánh Luca và của thánh Gioan đã cho nhân loại thấy cái lạ lùng của con trẻ Gioan. Đây quả là ơn nhiệm lạ, hồng ân cao quí Chúa ban cho nhân loại vì ngay khi còn trong bụng mẹ, thánh Gioan Tẩy Giả đã nhảy mừng lúc Đấng Cứu Độ trần gian ngự đến. Ngày chào đời, thánh nhân đã đem lại nhiều niềm vui. Thánh Gioan là vị ngôn sứ duy nhất đã chỉ cho nhân loại biết Đấng Cứu Thế là Đức Kitô, là Chiên Thiên Chúa đến cứu độ trần gian. Thánh Gioan và chỉ mình Người đã rửa tội cho Chúa Giêsu trong dòng sông Giorđan và sau cùng chính thánh Gioan Tẩy Giả đã chịu chết để minh chứng cho Đấng Kitô, Đấng cứu độ ( Lc 1, 39-79 và xem Kinh tiền tụng lễ thánh Gioan Tẩy Giả ).

NGÀI PHẢI LỚN LÊN, CÒN TÔI PHẢI NHỎ LẠI

Thánh Gioan Tẩy Giả đã nói lên điều đó vì Ngài hiểu rõ Ngài hơn ai hết. Ngài phải đi trước dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan Tẩy Giả sống đời sống rất khắc khổ: mặc áo lông, đồ ăn là châu chấu và mật ong rừng. Thánh nhân rao giảng sám hối và làm phép rửa. Đám đông dân chúng có nhiều người đã ngộ nhận Ngài là Đấng Mêsia, nhưng Gioan nói:” Tôi, Tôi làm phép rửa anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn Tôi đang đến, Tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa ( Lc 3, 16 ).Thánh Gioan đã phủ nhận vai trò Mêsia mà đám đông dân chúng gán cho Ngài vì gương sáng, lòng đạo đức, sự thánh thiện và những công việc Ngài đang làm. Thánh nhân đã gồm tóm cuộc đời của Ngài trong câu nói:” Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại “. Thánh đã sống đích thực con người của mình, Ngài ý thức rằng:”...Người đến sau tôi nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”( Ga 1, 15 ). Thánh Gioan được coi là vị ngôn sứ cao cả nhất trong dân Israen, đã qui tụ, thu hút được đám đông quần chúng nhân dân mà chưa có vị ngôn sứ nào làm được công việc ấy như Ngài. Tuy nhiên, để hoàn tất sứ mạng ngôn sứ cao cả Thiên Chúa trao phó cho Ngài, thánh Gioan Tẩy Giả đã để cho con người mình tan biến đi, nhỏ lại và mất hút trong kiếp tù đầy, trong cái chết chỉ vì Hêrođê, hứa với con gái:xin gì Oâng cũng cho dẫu nửa nước đi nữa và thánh Gioan, vị ngôn sứ đã bị rơi đầu vì ích kỷ, thù hận của một người vợ loạn luân của vua Hêrôđê. Thánh Gioan đã tan biến trong cái chết phi nghĩa, tàn bạo của một ông vua tồi tàn, còn Chúa Giêsu lại lớn lên trong vinh quang, trong mầu nhiệm thập giá của Ngài.

THÁNH GIOAN TẨY GIẢ LÀM GƯƠNG CHO TA

Gương can đảm nói lên sự thật cho dù sự thật kéo theo sinh mạng của Ngài, thánh Gioan đã thật hiên ngang loan báo cái chết của Đức Kitô để cứu độ nhân loại. Nhân loại trong đó có mỗi người chúng ta liệu có nhạy cảm và quảng đại, can đảm làm chứng cho Chúa Kitô hay không ? Thánh Gioan đã viết:” Sự thật sẽ giải phóng con người “. Mỗi người chúng ta có để cho Chúa lớn lên trong ta hay chúng ta để cho bóng tối, tội lỗi, ích kỷ xâm lấn đời sống chúng ta ? Thập giá có là nguồn sống để chúng ta vươn tiến hay chúng ta tránh né và sợ thập giá ? Đẩy lùi những cản trở của hận thù, của ích kỷ, của hờn căm, Chúa mới thực sự lớn lên trong ta.

Lạy Chúa, Chúa đã sai thánh Gioan tẩy Giả đến chuẩn bị cho dân Chúa sẵn sàng đón Đức Kitô. Xin rộng ban cho các tín hữu được đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, và xin hướng dẫn họ bước vào con đường cứu độ và bình an ( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Gioan Tẩy Giả ).

=====================================================================================
Bài Đọc Thêm Về Lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tiền Hô



SINH NHẬT :


Mừng sinh nhật thánh Gioan Tiền Hô giúpchúng ta nhớ lại ngày mỗi người chúng ta được tái sinh trong Chúa qua bí tích Rửa Tội, trở thành con cái Chúa và anh chị em trong đại gia đình Dân Chúa.


Có nhiều điểm giống nhau giữa thánh Gioan và Đức Kitô đến nỗi người đương thời nhầm lẫn Chúa Kitô và Gioan nên ông phải lên tiếng phủ nhận. Tôi không phải là Đức Kitô, tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa dọn đường cho Chúa đi. Điều Gioan xác nhận đã được tiên tri Isaiah tuyên sấm hơn 750 năm trước đó.



Có tiếng người hô trong hoang địa.
Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa.
Sửa lối cho thẳng để Người đi. (Mat 3,3).

Đức Kitô và Gioan biết nhau từ nhỏ vì hai người cùng trạc tuổi nhau. Phúc âm thuật lại khi bà Maria đi thăm bà Elizabeth, vừa thấy bà Maria hài nhi, sau này là Gioan, đã nhảy mừng trong lòng và bà được tràn đầy Thánh Thần (luca 1, 41). Việc thụ thai của cả hai được chính Thiên Sứ Gabriel báo trước. Cả hai được sinh ra bởi hai bà mẹ đạo đức dường như không thể sinh con. Bà già mang thai con trong tuổi cao niên; bà trẻ khấn hứa trọn đời đồng trinh. Cả Gioan lẫn Đức Kitô con đều rõ sứ mạng của mình ngay từ trong lòng mẹ.


Như thế giữa Gioan và Chúa Giêsu có một mối giây liên kết rất chặt nối liền cuộc đời hai người. Gioan là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước và Đức Kitô là Ngôn Sứ vĩ đại nhất trong Tân Ước và là Ngôn sứ quan trọng nhất trong lịch sử cứu độ vì chính Ngài là Thiên Chúa. Nhận biết Đấng đến sau mình là Thiên Chúa nên Gioan tự nhận là tiếng kêu trong samạc loan báo lời Thiên Chúa hứa sắp được thực hiện.


Gioan thông báo cho toàn dân biết Đức Kitô đến công bố năm Hồng Ân của Thiên Chúa. Gioan đi trước dọn đường kêu gọi mọi người chuẩn bị đón Đức Kitô vì Ngài đến công bố năm Hồng Ân. Ngài là Đường, Sự Thật và là Sự Sống.

Ai đi trên con đường đó sẽ tìm được ơn cứu độ.
Ai đi trên con đường đó sẽ không vấp ngã.
Ai đi trên đường đó sẽ tìm thấy sự thật vì Ngài là sự thật.
Ai đi trên con dường đó sẽ có được sự sống vì Ngài là sự sống.

PHÉP RỬA




Hai người cùng rao giảng về Phép Rửa. Gioan rao giảng phép rửa thống hối tại vùng sông Giođan. Ông kêu gọi toàn dân hãy trở về với đường lối Chúa, ăn năn thú tội, chịu phép rửa để được ơn thống hối; Đức Kitô rao giảng thống hối và kêu gọi ăn năn bắt đầu từ nội tâm, từ trong lòng. Phép rửa của Gioan là phép rửa bằng nước tượng trưng cho việc thống hối đi trước chuẩn bị đón nhận phép rửa của Đức Kitô là phép rửa bằng Thánh Thần mang ơn tha tội, thánh hoá con người cũ để mặc lấy con người mới và là phần tử của Chúa Kitô, trong đại gia đình Chúa.

‘tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để dục lòng các anh thống hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh hần và lửa.’ (Mat 3,11)


Phép rửa của Gioan là dấu chỉ bề ngoài để nhận được sức mạnh Thánh Thần cần phép rửa của Đức Kitô mới thật sự thanh tẩy tâm hồn do sức mạnh của Thánh Thần. Phép rửa của Chúa Kiô tác động từ nội tâm, từ lòng con người phát ra sự thống hối ăn năn từ trong tim, óc của hối nhân.


Phép rửa này biến hối nhân thành con người mới, sống đời sống mới được đong đầy bằng tình yêu Chúa Thánh Thần.


ĐỜI ẨN DẬT


Đức Kitô và Gioan bắt đầu cuộc đời rao giảng bằng việc tiến vào samạc.

Gioan bắt đầu rao giảng từ hoang địa như lời sấm của tiên tri Isaiah
Có tiếng người hô trong hoang địa,
Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa,
Sửa lối cho thẳng đề Người đi. (Is 40,3-5)



Gioan mặc áo lông lạc đà, lưng thắt đai da, ăn châu chấu và mật ong.Chúa Kitô cững bắt đầu cuộc đời rao giảng bằng việc chay tịnh 40 đêm ngày trong hoang địa. Sau đó thì ma quỷ đến cám dỗ.



KHIÊM NHƯỜNG




Gioan khiêm nhường hạ mình thành người tôi tớ hèn mọn.


Tôi chỉ là tiếng kêu trong samạc.
Tôi không phải là Đức Kitô


Người đến sau tôi quyền thế hơn, tôi không đáng cởi giây dầy cho Ngài.

Chúa Kitô khiêm nhường nhận thân phận tôi tớ hèn mọn làm chiên, chịu khổ hình, đổ máu đào trên thập giá cứu chuộc nhân loại. Ngài vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Đức Kitô đến công bố năm hồng ân, năm ban sự sống và thánh hoá sự sống bị tội lỗi làm lu mờ.


Mừng ngày sinh nhật thánh Gioan chúng ta nhớ lại ngài chúng ta được tái sinh vào trong nước Chúa bên giếng nước rửa tội. Mừng ngày Đức Kitô đến công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Năm xá giải, năm hồng ân cho những ai tin nhận Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa.


Chúa Kitô trao quyền cho các môn đệ.


‘Hãy đi giảng dậy muôn dân, rửa tội cho họ nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần’. Đây chính là hồng ân Đức Kitô công bố vì ai nhận phép rửa này và sống đúng tin thần phép rửa sẽ sống trong bình an, hy vọng.
 

langvuon

khoai nướng
Ðề: Lịch Phụng Vụ 6/2011

Chúa Nhật 26 X
Chúa Nhật thứ XIII Mùa Thường Niên
LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA GIÊSU
Dnl 8: 2-3, 14-16 Tv 147: 12-13, 14-15, 19-20 1Cor 10: 16-17 Ga 6: 51-58
Kính thánh tử đạo Đaminh Minh, Gm, Phanxicô Đỗ Văn Chiểu, Thày giảng

Thứ Hai 27 X
Thứ Hai sau Chúa Nhật thứ XIII Mùa Thường Niên
St 18: 16-33 Tv 103: 1-2, 3-4, 8-9, 10-11 Mt 8: 18-22
Kính thánh tử đạo Tôma Toán, Thày giảng

Thứ Ba 28 Đ
Thứ Ba sau Chúa Nhật thứ XIII Mùa Thường Niên
Lễ nhớ Thánh Irenaeus, Gmtđ
St 19: 15-29 Tv 26: 2-3, 9-10, 11-12 Mt 8: 23-27

Thứ Tư 29 Đ
Thứ Tư sau Chúa Nhật thứ XIII Mùa Thường Niên
THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ, Tông đồ, Lễ Trọng
St 21: 5, 8-20 Tv 34: 7-8, 10-11, 12-13 Mt 8: 28-34

Thứ Năm 30 X
Thứ Năm sau Chúa Nhật thứ XIII Mùa Thường Niên
Các Thánh Tử Đạo Tiên Khởi Thành Rôma
St 22: 1-19 Tv 115: 1-2, 3-4, 5-6, 8-9 Mt 9: 1-8
Kính thánh tử đạo Vinh Sơn Đỗ Yến, Lm

LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA GIÊSU
Lễ trọng


Hôm nay Giáo Hội mừng kính lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Thánh lễ này nhắc nhở cho ta: Chúa Kitô đã và đang trao ban chính Mình Máu Ngài làm lương thực để ban sự sống cho ta, để tiếp nhận ta vào sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Tin Mừng hôm nay thuật lại phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều. Phép lạ này không phải từ “không ra có”, nhưng từ năm chiếc bánh và hai con cá là phần đóng góp của con người. Tương tự như vậy, bánh và rượu trở nên Mình Máu Thánh Chúa được hiến dâng trên bàn thờ chính là hoa màu ruộng đất và lao công khó nhọc của con người. Thiên Chúa không muốn làm một mình, nhưng Ngài muốn con người cộng tác với Ngài. Được cộng tác với Ngài chính là hồng ân, là vai trò tuy nhỏ bé nhưng hết sức cao quý được dành riêng cho ta trong mầu nhiệm Thánh Thể.

Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Corintô, thánh Phaolô cho chúng ta một chứng từ cổ xưa về bí tích Thánh Thể mà ngài gọi là bữa ăn của Chúa. Bí tích Thánh Thể là một sáng kiến của Ðức Giêsu trong bữa ăn vào đêm Người bị nộp. Tấm bánh thành Mình Thầy: hãy cầm lấy mà ăn. Chén rượu thành Máu Thầy: hãy cầm lấy mà uống.

Đã bao nhiêu thế kỷ qua đi, có biết bao thánh lễ đã được cử hành trên mặt đất. Thánh lễ nào cũng là một bữa ăn do Chúa thết đãi, và cũng là một nghi thức tưởng nhớ cái chết của Chúa. Không thể tách rời thánh lễ với cái chết của Ðức Giêsu. Mình Thầy sẽ bị nộp, Máu Thầy sẽ đổ ra vì anh em. Rước lễ là rước lấy Ðấng đã chết vì loài người, Mỗi lần dự lễ, chúng ta loan truyền Chúa đã chịu chết va đã sống lại. Rước lễ chẳng phải là rước một thi hài người chết, mà là đón lấy Ðấng đang sống và đang ban phát sự sống.

Dự thánh lễ là tham dự một bữa ăn, là tham dự vào hy tế năm xưa trên Núi Sọ. Chính vì thế ta không nên dự lễ với hai bàn tay trắng. Cần đem theo tấm bánh của mình trong những ngày qua. Chúa Giêsu cần tấm bánh của tôi, để Người biến đổi. Thánh Thần cần tấm bánh của tôi, để Người thánh hoá. Chúa Kitô không từ trời cao ngự xuống tấm bánh. Ðúng hơn, Người nâng tấm bánh lên tới Người, và biến tấm bánh thành lương thực thần linh nuôi tôi. Như thế, tấm bánh mong manh nhỏ bé lại là nơi hội tụ của cả Thiên, Ðịa, Nhân. Vũ trụ, con người và Thiên Chúa gặp nhau, hoà quyện vào nhau. Bí tích Thánh Thể góp phần biến đổi cả vũ trụ loài người. Những gì là tự nhiên, nay được thần hoá, được biến đổi tận căn mà vẫn không đánh mất chính mình. Lễ vật tôi dâng lên Chúa, Chúa trao lại cho tôi. Bánh bởi trời cũng là bánh bởi đất...

Mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa là Mầu Nhiệm Tình Yêu. Chính vì thế mà Thánh Gio-an đã viết về đêm Người bị trao nộp: "Người đã yêu thương họ đến cùng". Vì yêu thương đến cùng nên Người cũng hiến thân đến cùng. "Này là Mình Thầy, Này là Máu Thầy, các con ăn đi, và hãy làm như thế để tưởng niệm Thầy".

***
Lạy Chúa Giêsu! Có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm, ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân, và nhắc con về sự hiện diện của Chúa.

Con mong sự hiện diện ấy lan toả khắp nơi, để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ, nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp, nơi lớp học tình thương lúc chiều tà, nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm, nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ, nơi khách sạn năm sao, nơi quán bia đầu ngõ, nơi các tiệm cho mướn băng video, nơi tình yêu trong trắng của đôi bạn trẻ...

Nhưng lạy Chúa, trước hết, xin cho đời con là một ngọn đèn, ngọn đèn màu đỏ lung linh sáng, mời gọi tha nhân dừng bước, để trầm tư và gặp được Chúa. Amen

Tổng hợp từ R. Veritas


Ngày 26 tháng 06
Thánh Đaminh HENARES MINH (XUÂN)
Giám mục dòng Đaminh - (1765 – 1838)

Lời kinh và ước vọng

Lạy Chúa Giêsu rất dịu hiền là cha của lòng con. Xin Chúa vì cuộc tử nạn thánh, vì công nghiệp và lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin đoái thương đến bác của con, Đưc Giám mục Đaminh. Xin gìn giữ bác khỏ mọi sự dữ. Xin cho bác yêu Chúa thiết tha, trung thành phục vụ Chúa suốt cuộc đời. Và nếu cần để tôn vinh và làm hiển danh Chúa hơn, xin cho bac được phúc đổ máu mình và hiến dâng mạng sống cho tình yêu Chúa để làm chứng cho đức tin. Amen"(1).

Đó là lời kinh mà Đức Cha Minh từ miền truyền giáo Việt Nam đã soạn gửi về quê nhà cho cháu mới năm tuổi đọc cầu cho bác. Cô bé đã dâng lời nguyện đó hằng ngày, dù em biết rất ít về người bác mình. Khi bà con lối xóm hởi em về ông bác giám mục, em chỉ biết thưa : "Bác tên Đaminh, tu dòng Đaminh, đang truyền giáo ở xa, thật xa, nơi mà người ta đang tàn sát các Kitô Hữu". Và chúa đã nhận lời khẩn xin tha thiết của hai bác cháu tại hai phương trời xa xăm đó.

Theo tiếng gọi truyền giáo.

Đaminh Henares sinh ngày 19.12.1765 tại làng Baena, giáo phận Cordoda, nước Tây Ban Nha. Một vài năm sau, gia đình dọn về Granada, nơi cậu đã lớn lên và theo học các lớp phổ thông, các phụ huynh thường nhắc đến cậu như một mẫu gương cho con cái mình. Còn bản thân cậu, càng ngày càng sôi sục trong lòng tiếng Chúa kêu gọi vào đời sống tu trì. Năm 16 tuổi, Henares xin nhập dòng tu Đaminh ở tỉnh Granada. Nhưng mãi đến ngày 30.08.1783, cậu mới được lãnh tu phục dòng tại tu viện Guadix (18 tuổi), năm sau thì tuyên khấn và theo học triết học. Ngay từ niên khóa đầu, thày Henares đã tỏ ra là một sinh viên xuất sắc, nên cuối năm đó, khi thày xin phép chuyển qua tỉnh dòng Rất Thánh Mân Côi để được truyền giáo ở Việt Nam, các bề trên đều tiếc nhớ. Thày Đaminh đã nhận ra tiếng Chúa kêu mời qua lời cổ động khẩn thiết của Đức cha Obelar Khâm, giáo phận Đông đàng Ngoài : Đã 15 năm giáo phận chưa thêm được một thừa sai nào cả.

Thế là thày Henares liền tham gia một nhóm tu sĩ trẻ lên đường đến Phi Luật Tân dưới sự dẫn dắt của tu sĩ Delgado. Kể từ nay cuộc đời hai vị gắn liền với nhau cách khăng khít. Sau hơn một năm lênh đênh trên biển cả, vượt Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, phái đoàn đã cập bến Manila ngày 09.07.1786. tại đây thày Henares vừa tiếp tục học thần học, vừa dạy văn chương cho học sinh trường Santo Tomas. Ngày 20.09.1789 thày thụ phong linh mục và được gửi đi truyền giáo tại Bắc Việt. Khi đến Macao, cha Henares gặp lại linh mục Delgado đã khởi hành trước một năm nhưng vẫn chưa tới Việt Nam. Hai cha cùng với hai thừa sai khác là Vidal và Gatillepa, cả bốn vị đã vào lãnh thổ giáo phận Đông Đàng Ngoài ngày 29.10.1790, trong niềm hân hoan của cả giáo phận, vì khi đó chỉ còn ba vị thừa sai, mà tất cả đều đã cao niên.

Riêng cha Henares Minh, với tuổi trẻ 25, cha học tiếng Việt rất nhanh chóng. Sau sáu tháng, cha đã được trao phó việc coi sóc chủng viện Tiên Chu. Trong nhiều năm, cha kiên trì dạy các chủng sinh học tiếng Latinh và giúp họ rèn luyện các nhân đức. Từ năm 1789, giữa cơn bách hại của vua Cảnh Thịnh, cha được tỉnh dòng ủy nhiệm làm bề trên phụ tỉnh (cha chính) các cha dòng Đaminh tại Việt Nam. Năm sau, khi đức cha Alonso Phê qua đời, Đức cha Delgado Y lên kế vị, cha Minh được đặt làm cha chính của giáo phận. Ngày 09.09.1800, Đức cha Piô VII bổ nhiệm cha làm giám mục hiệu tòa Fez và Giám mục Phó có quyền kế vị của Đức cha Delgado Y. Nhưng tình hình Việt Nam căng thẳng, sau hai năm sắc phong mới tới xứ truyền giáo.

Vị mục tử nhân hiền

Ngày 09.01.1803 là ngày hội lớn của toàn giáo phận Đông Đàng Ngoài. Các thừa sai ngoại quốc, hơn 30 linh mục Việt Nam, hàng chục ngàn giáo dân từ các nơi tuốn về Phú Nhai tham dự lễ tấn phong Giám mục phó Henares Minh, khởi đầu một giai đoạn bình an kéo dài hơn 20 năm. Hai vị giám mục Delgado Y và Henares Minh, hai anh em "sinh đôi" như một số người quen gọi, cùng mang những thao thức như nhau, cùng được đào tạo một nơi, cùng đến đất Việt một ngày… từ nay luôn tâm đầu ý hợp, cùng nhau đưa giáo phận đến giai đoạn cực thịnh. Hai vị chia nhau đến thăm từng họ đạo nhỏ nhất. Đức cha Minh với tinh thần phục vụ cao, thường chọn cho mình những họ đạo xa hơn, thuộc trấn Kinh Bắc, nơi rừng sâu nước độc mà trước đó ít năm, Đức cha Phê đã bỏ mạng vì bệnh sốt rét rừng.

Linh mục Hermosilla Vọng đã viết về Đức cha Minh như sau : "Ngài là một thủ lãnh thanh khiết trong đời sống, là vị mục tử nhiệt tâm không hề mỏi mệt vì ơn cứu độ các linh hồn và là đấng khao khát mãnh liệt phúc tử đạo. Ngài sẵn sàng lên đường bất cứ lúc nào trách nhiệm đòi hỏi, dù đang nửa đêm khuya vắng. Ngài có lòng đạo đức trổi vượt, biểu lộ qua việc cầu nguyện không ngừng, đồng thời siêng năng nghiên cứu các giáo phụ. Ngài sống nghèo khó Tin Mừng thực sự, và như một người cha hiền dịu, ngài quảng đại với những người xấu số nhất. Đó là những nhân đức chính mà ngài luôn nêu gương".

Với lòng khiêm tốn, bác ái, Đức cha Minh nhiệm nhặt với mình, nhưng lại rộng lượng với mọi người. Tuy bận rộn với bao công việc của giáo phận, ngài vẫn tự may vá lấy y phục của mình, và cố gắng sửa lại những quần áo cũ để phân phát cho người nghèo. Nhờ biết chút ít về nghề thuốc, Đức cha là ân nhân của nhiều người bệnh tật. Đi dâu ngài cũng mang theo một hộp nhỏ đựng thuốc phát cho bệnh nhân nan y, mọi người đều cho là họ được khỏi do lời cầu nguyện và chúc lành hơn là nhờ thuốc.

Nếu giờ chưa đến….

Chính tráp đựng thuốc bác ái đó một lần kia đã cứu ngài thoát chết. Khi ngài đang ở họ Thượng Hộ thuộc Sơn Nam Hạ thì bị một nhóm cướp bắt cóc để tống tiền. Giữa đêm chúng lẻn vào nhà, bắt và dẫn Đức cha vào rừng. Bỗng tên cướp ôm chiếc tráp thuốc vấp ngã, những chai lọ đổ lỏng chỏng ra ngoài, một vài dụng cụ kim loại lấp lánh trong đêm, khiến chúng tưởng là vàng bạc xô lại trang giành, Đức cha liền nhanh chân láu mình trong một bụi cây rậm rạp gần đó. Đám cướp sục sạo một lát thì trời tảng sáng và nghe dân làng đánh kẻng báo động đi tìm Đức cha, họ ùa nhau bỏ chạy.

Theo ý Tổng trấn Hà Nội Nguyễn Văn Thành, ông muốn tổ chức một buổi trao đổi công khai về tôn giáo. Đức cha Minh cùng đức cha Longer Gia giáo phận Tây Đàng Ngoài nhận lời và đưa ra đề tài : "Không ai được bắt ép người Công Giáo làm việc dị đoan". Nhưng vì tổng trấn không chấp nhận đề tài đó, nên cuộc trao đổi phải bãi bỏ. Đức cha Minh thấy vậy đã nhận định rằng : "Bao lâu còn thiếu ánh sáng bởi trời thì lý luận mấy cũng vô ích".

Khi vua Minh Mạng lên ngôi được vài năm, miền bắc có nhiều cuộc khởi nghĩa: Lê Duy Lương, Nùng Văn Vân… Ở Nam Định và Hải Dương có Phan Bá Vành. Nói chung dân Bắc Hà vẫn còn hoài nhớ triều Lê, chứ không ưa triều Nguyễn. Chính Gia Long phải mượn cớ phò Lê để thống nhất cả nước. Lúc đó, thế lực nhóm Phan Bá Vành ngày càng lớn, năm 1862, vua Minh mạng phải cử Lê Văn Duyệt và Nguyễn Công Trứ ra đánh dẹp. Quân của Vành thua rút vào làng Trà Lũ, cầm cự được ba tháng, mới bị bắt, cuộc chiến thắng này có phần đóng góp của hơn 300 giáo hữu, thế nhưng vì trong số tù nhân cũng có những người Công Giáo, họ khai là có biết Đức cha Minh và 10 cha dòng người Việt, khiến từ đó Đức cha bị ghi vào "sổ đen" của nhà vua.

Ngày 13.05.1827, Tổng đốc Nam Định thừa lệnh nhà vua đem 800 quân và voi trận đến vay Trà Lũ bắt Đức cha, nhưng ngài đã kịp biết tránh đi nơi khác. Dù rất mong mỏi được đổ máu làm chứng cho tình yêu Chúa, Đức cha thường tâm sự rằng tử đạo là ơn phúc trọng đại, không ai được tự tiện liều lĩnh ngoài thánh ý Chúa. Tiếp theo đó là 10 năm phục vụ, tuy có phần khó khăm âm thầm hơn, nhưng nói chung giáo phận Đông Đàng Ngoài vẫn tương đối được bình an. Cho đến tháng 04.1838, vì phát hiện sáu lá thư của cha Viên gởi cho giám mục và bốn linh mục, nhà vua biết có sự hiện diện của các ngài. Vua đã khiển trách Tổng đốc Trịnh Quang Khanh nặng lời, và phái thêm 2000 lính kinh đô ra tăng viện, quyết lùng bắt hết các giáo sĩ. Đức cha Minh và thày Chiểu phải bỏ Tiên Chu đi ẩn tại Kiên Lao, gần chỗ Đức cha Y và hai vị thừa sai khác. Ngày 28.05, khi Đức cha Y bị bắt, Đức cha Minh đang lánh thân trong nhà bà Tư, giả bộ xay lúa, mỗi khi quân lính đi ngang, bà Tư lấy nong che mặt cho ngài.

Bản án phải được sửa lại.

Tối hôm đó, Đức cha Minh bỏ nhà bà Tư đi sang làng Trung Thành, rồi làng Quần Anh và Xương Điền. Khi thấy quân triều đình lảng vảng theo dõi, Đức cha và thày Chiểu xuống thuyền đi ngược ra biển. Một ngư phủ ngoại giáo nói với các tín hữu : "Coi chiếc thuyền ngược gió kia, tôi đóan là một thừa sai chạy trốn cuộc bách hại mà chưa biết về đâu. Các bác tìm cách đưa ngài vào đây, tôi sẽ lo liệu chỗ trọ và che dấu giùm cho". Quá tin vào ông ta, các tín hữu ra mời ngài trở lại, ai ngờ ông ta đi báo quan quân đến bắt đức cha và thày Chiểu tại nhà mình.

Quan phủ Xuân Trường đối đãi với Đức cha khá tử tế, nhưng vì sợ nhà vua, ông đành phải đóng cũi và ván ép giải lên Nam Định ngày 11.06.1838. tại đinh Tổng đốc, có hai chiếc cũi của ngài và của đức cha Y được đặt gần nhau, hai vị nói truyện với nhau bằng tiếng Tây Ban Nha. Không rõ các vị nói những gì, nhưng chắc chắn quả là niềm an ủi lớn lao, khi được chia sẻ với nhau những tâm sự thầm kín. Gần nửa thế kỷ sát cánh bên nhau trên đường về Thiên Quốc. Mọi người thấy rõ niềm vui lộ trên khuôn mặt của hai vị.

Khi quan tòa đòi Đức cha Minh phải ký vào bản án đã viết sẵn, ngài yêu cầu cho nghe trước rồi mới ký. Vừa nghe đọc hai chữ "Tả Đạo", Đức cha cắt ngang : "Xin quan sửa lại chữ đó thành đạo Đức Chúa Trời". Quan đồng ý và sửa lại. Khi đọc đến chữ "…lừa đảo ngu dân", Đức cha lại lên tiếng : "Không đúng, chúng tôi không lừa đảo ai, chúng tôi chỉ đến đây giảng đạo chân chính". Đức cha không chịu ký vào cho đến khi quan ông ý sửa bản văn lại. Ngày 12.06, bản án được gửi về kinh đô, nhà vua châu phê và gởi lại Nam Định ngày 25.06, Đức cha còn được một ngày để chuẩn bị tâm hồn lãnh phúc tử đạo.

Chứng tá cuối cùng.

Một số binh sĩ Công Giáo giữ đạo cách bí mật đã bỏ tiền ra xin được vinh dự khiêng cũi Đức cha. Và trước khi khởi hành ra pháp trường, nhiều binh sĩ đã trót nhát sợ đạp lên Thánh Giá, đến quỳ khóc lóc trước cũi, xin Đức cha cầu nguyện và tha thứ. Đức cha đã nhân ái an ủi họ và giúp họ thống hối đền tội. Trên đường đến Bảy Mẫu, Đức cha Minh trong cũi với nét mặt hân hoan, miệng thầm thĩ nguyện kinh và giơ tay ban phép lành cho các tín hữu đang khóc thương hai bên đường. Thày Chiểu mang gông đi phíaa sau. Cuối cùng là năm binh sĩ không chịu bước qua Thánh Giá, trong đó có ba vị tử đạo sau này là Augustinô Huy, Nicolas Thể và Đaminh Đinh Đạt, nhưng hôm ấy đến nửa đường, cả năm binh sĩ đều được đưa trở về ngục.

Tại pháp trường, Đức cha Minh muốn chứng kiến cái chết kiên trung anh dũng của người môn đệ quý yêu : thày Phanxicô Chiểu, Đức cha xin xử trảm thày trước. Viên quan đồng ý. Thế là quân lính xử chém và trao đầu thày cho vị Giám Mục. Ngài trân trọng đón lấy, rồi ngửa mặt lên trời cầu nguyện trang nghiêm như đang dâng lễ vật đẫm máu lên Thiên Chúa. Đến lượt mình, Đức cha nghiêng đầu cho lý hình thi hành quân sự. Hôm đó là ngày 26.06.1838, Thiên Chúa đã gọi Đức cha Henares Minh về trời lãnh ngành thiên tuế tử đạo, chấm dứt 73 năm trên dương thế với 43 năm phục vụ tại Việt Nam, 38 năm giám mục.

Thi hài Đức cha được lý hình an táng ngay tại pháp trường, nửa tháng sau các tín hữu cải về Lục Thủy. Đầu của ngài bị treo ở cổng thành ba ngày, rồi ném xuống sông Vị Hoàng, vài ngày sau một dân chài Công Giáo may mắn vớt được, các tín hữu đưa về táng chung với thi hài. Về sau khi ngưng bách hại, họ long trọng đưa hài cốt Đức cha về tòa Giám mục Bùi Chu.
Đức Lêo XIII suy tôn Giám mục Henares Minh lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.


Ngày 26 tháng 06
Thánh Phanxicô ĐỖ VĂN CHIỂU

Thày giảng dòng ba Đaminh - (1797 – 1838)

Lễ vật đẫm máu.

Hình ảnh đáng ghi nhớ nhất trong cuộc tử đạo của thày giảng Phanxicô Chiểu là chiếc thủ cấp đẫm máu của thày, sau khi rời khỏi cổ, đã được Đức cha Minh nhận lấy, kính cẩn dâng lên cao như lễ vật tinh tuyền hiến dâng lên Thiên Chúa. Cả pháp trường đều thinh lặng ngây ngất trong giây phút linh thiêng có một không hai đó, giây phút kết tinh trọn cuộc đời của một người con cái Chúa. Thày Chiểu đã hòa lẫn máu mình với hy tế Đức Giêsu trên đồi Canvê, và giờ đậy hân hoan trở về trong vòng tay ấm êm của Chúa Cha từ ái.

Một tông đồ tràn đầy tâm huyết

Phanxicô Đỗ Văn Chiểu sinh năm 1797 tại làng Trung Lễ, giáo xứ Liên Thủy, Tỉnh Nam Định, thuộc giáo phận Đông Đàng Ngoài. Cậu Chiểu đi tu từ hồi niên thiếu, và được đào tạo thành thày giảng của giáo phận. Trong thời gian bốn năm học thần học, thày Chiểu luôn sống đạo hạnh và có tinh thần kỷ luật cao, nên được các vị hữu trách tín cẩn. Sau đó thày gia nhập dòng ba Đaminh, và trở thành cộng sự viên thân tín của Đức cha Minh.

Bận tâm lớn nhất của thày Chiểu là phần rỗi của mọi người. Lần kia, tại làng Kiên Lao, một người lính đến gặp thày ngỏ ý muốn được giúp xưng tội và rước lễ để thêm can đảm trong cơn bách hại. Thày đã tiếp truyện với anh khá lâu, khuyến khích anh trung thành với đức tin Kitô giáo cho đến chết. Hai người cùng nhau cầu nguyện sốt sắng trước khi chia tay. Lần khác khi nghe tin người em bị bắt vì đạo, thày xin cha Hiển dâng hai thánh lễ cầu cho người em được cam đảm chấp nhận mọi gian khổ để tuyên xưng đức tin.

Cùng chung số phận.

Từ năm, 1838 Tổng đốc Nam Định Trịnh Quang Khanh quyết tâm lùng bắt các vị thừa sai để lập công với vua Minh Mạng. Ông đã đem đến cho người Công Giáo Đàng Ngoài muôn điều khổ cực. Thày Chiểu theo Đức cha Henares Minh đến ẩn trốn tại làng Kiên Lao, một giáo xứ lớn tương đối an toàn.

Nhưng ngày 27.05.1838, do sự tố cáo của thày đồ Hy, quan Tổng đốc đã cho lính bao vây làng Kiên Lao. Quân lính bắt được Đức cha Delgado Y, còn Đức cha Henares Minh và thày Chiểu may mắn thoát nạn trong gang tấc, liền trốn ra bờ sông đi thuyền về Hải Dương. Dọc đường đi hai cha con vào trốn tạm tại nhà ông Nghiêm gần họ Hà Quang, xứ Trung Thành, sau qua làng Quần Anh và Xương Điền. Một ngư phủ ngoại giáo nhận cho hai vị trú ngụ và hứa che dấu cẩn thận. Ai ngờ, ngày 09.06.1838, chính người đó đi tố giác với quan, nên hai vị đã bị bắt. Đức cha Henares Minh thì bị lính nhốt trong cũi, còn thày Chiểu, quan bắt mang gông nặng và tống giam vào ngục. Trong ngục, thày tuyên bố : "Tôi sẵn sàng theo Đức cha Minh cho đến chết, sẵn sàng chịu mọi cực khổ như ngài, kể cả cái chết dữ tợn nhất". Hai ngày sau, lính phủ Xuân Trường áp giải cả hai về tỉnh Nam Định.

Khi tới cổng thành Nam Định, mặc dù cổ mang gông nặng, dù bị những ngọn roi tàn bạo, thày Chiểu cố cúi xuống cầm lấy Thánh Giá dưới đất lên hôn kính, rồi chờ cho cũi của Đức cha Minh đi qua, thày mới để Thánh Giá lại như cũ và tiến vào thành.

Cực hình gian nan…

Tại dinh Tổng đốc, các quan tra hỏi thày nhiều lần, lần nào thày cũng tuyên xưng đức tim một cách can đảm, không sợ sệt. Khi các quan bảo thày bước qua Thánh Giá thì sẽ được tha về, còn bất tuân thì sẽ bị xử tử, thày Chiểu trả lời : "Đức Chúa Trời là Chúa thật, là căn nguyên của mọi sự, người ta phải thờ lạy kính mến ngài. Vì thế tôi không giám bước qua Thánh Giá, chắc chắn tôi không làm được điều đó".

Dùng lới khuyên dụ không được, quan sai lính trói tay chân thày vào cọc rồi đánh 30 roi, nhưng thày vẫn không nao núng. Quan truyền cho xích thày và tống giam vào ngục. Sau đó các quan kết án như sau:

"Tên Đỗ Văn Chiểu đã đi theo và học với tên Trùm Hai (tức Đức cha Henares Minh). Nó học những điều giả dối. Nó ngoan cố và bất tuân lệnh vua cải tà qui chánh. Mặc dù bị bắt giam, bị tra tấn, nó vẫn nhất mực ngoan cố theo tả đạo Gia Tô. Vậy nay nó đáng phải chịu chảm quyết".

Các quan đệ trình bản án này về kinh đô xin vua phê chuẩn. Trong 15 ngày bị giam, thày Chiểu đã trải qua nhiều thử thách, chịu đòn vọt, chịu đói khát… như thày viết gửi thày Quỳnh ngày 21.06:

"Ở trong này tôi phải chịu nhiều cực hính đau đớn, chịu đói khát, không có tiền mua cơm ăn. Tôi nhờ thày gặp các cha xin các ngài giúp đỡ tôi. Thày xin lỗi mọi người giúp tôi nhé. Chắc chắn tôi sẽ được tử đạo, vì nhờ ơn chúa, tôi vẫn trung thành và bề đỗ với người".

Trong khi đó, vua Minh Mạng phê bản án và gửi bản án về tới Nam Định ngày 25.06.1838. ngay trong ngày cuối đời, thày Chiểu còn phải đương đầu với những dụ dỗ của các quan. Quân lính dẫn thày ra công đường, quan đọc bản án và hứa nếu đạp lên Thánh Giá, quan sẽ tha ngay. Thày Chiểu bình tĩnh và mạnh dạn trả lời : "Khi quan lớn nằm nghỉ, quan có bằng lòng để cho người con của quan đạp lên không ? Phương chi Đức Chúa Trời là Chúa trời đất, mọi người phải kính thờ thì làm sao tôi giám bước qua ảnh của người". Trước lời khẳng khái của thày, quan nổi giận và cho thày là xấc láo. Có ông đòi xử tử ngay, ông khác nói để đến ngày mai vì đã quá muộn, chỉ nên cho lính đánh đòn rồi tống ngục. Thế là quân lính ra tay đánh đập cho đến khi thày ngất lịm với biết bao vết bầm tím trên da thịt, mới khiêng thày ném vào ngục thất.

Giờ phút vinh quang.

Sáng hôm sau 26.06.1838, quân lính dẫn Đức cha Henares Minh tới pháp trường Bảy Mẫu, Nam Định. Tuy mang gông ở cổ, kèm thêm hai sợi xích nối từ gông xuống đến chân, thày Chiểu bình tĩnh lê từng bước như xưa Chúa Giêsu vác thập giá lên Núi Sọ. Thấy nhiều tín hữu khóc lóc, thày nói với họ : "Anh chị em về nhà đi, đừng khóc nữa thày trò chúng tôi hôm nay về Quê thật mà".

Tới nơi, lính mở cũi đưa Đức cha ra, và tháo gông cho thày Chiểu. Đức cha Minh xin chém thày Chiểu trước để được thấy tận mắt người con thiêng liêng của mình đã trung thành với Chúa đến giây phút cuối cùng. Viên quan chỉ huy chấp thuận. Thế là thày Chiểu quỳ xuống trước mặt Đức cha và lãnh bí tích giải tội. Xưng tội xong, thày quỳ gối cầu nguyện và kêu tên Chúa Giêsu ba lần. Cũng như thánh Stêphanô xưa, thày Chiểu thưa với Chúa : "Lạy Chúa, con phó linh hồn con trong tay Ngài".

Ngay sau đó, lý hình chém một nhát trúng vào xích nơi cổ thày, họ phải chém thêm ba nhát nữa thì đầu mới lìa khỏi cổ, và linh hồn thày về hưởng phúc Thiên Đàng, thọ 41 tuổi. Lý hình tung thủ cấp thày lên ba lần cho các quan và mọi người thấy rõ. Thế rồi một khung cảnh trào dâng xúc động : Đức cha Minh đã cầm thủ cấp thày Chiểu và kính dâng lên Thiên Chúa như lễ vật hy hiến trước khi Đức cha được phúc tử đạo.

Giáo dân an táng thi thể thày tại nơi pháp trường, về sau di hài cốt về quê Trung Lễ.

Đức Lêo XIII suy tôn Chân Phước thày Phanxicô Đỗ Văn Chiểu ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.



Ngày 27 tháng 06
Thánh Tôma TOÁN
Thày giảng dòng ba Đaminh - (1764- 1840)

Tuổi Già can đảm.

Sau 13 ngày bị lột trần phơi nắng phơi sương, không một hạt cơm vào bụng, quân lính đem bày trước mặt tử tội một mâm cơm đầy thức ăn ngon và mời mọc. Thế nhưng cụ già 76 tuổi đó đã từ chối: “Nếu ăn mà phải xuất giáo, tôi không bao giờ ăn!”

Cụ già dũng cảm đó là thày giảng Tôma Toán.

Sinh năm 1764 tại làng Cần Phán, tỉnh Thái Bình, Tôma Toán vừa là hội viên dòng ba Đaminh, vừa là thày giảng có uy tín làm nhiệm việc truyền giáo ở Trung Linh. Nhà dòng giao cho thày chức phụ tá quản lý nhà chung tại đây. Thời Ming Mạng bách hại, thày Toán là cánh tay phải đắc lực của cha già Tuyên trong việc tông đồ.

Sa ngã và thống hối

Trong làng Trung Linh có ông lang Tư, vì ham tiền thưởng tố cáo với quan phủ Xuân Trường rằng làng có đạo trưởng, nên ngày 16.12.1839, quân lính đến càn quét lục sóat làng này. Cha Già Tuyên may mắn trốn xuống hầm nên thoát nạn. Thày Toán không kịp lẩn tránh, bị điệu ra trình diện. Thày khai tên là Thi và ngồi chung với dân làng. Nhưng do sự chỉ điểm của ông lang Tư, quân lính tiến về phía thày, kéo khăn trên trán ra và tri hô lên: “Tên này sói đầu đúng là đạo trưởng đây”. Về sau chúng biết thày không phải là Linh mục, nhưng vì tội không chịu xuất giáo nên vẫn bắt giam thày.

Cuộc tử đạo của thày Toán được ghi dấu bằng hai lần chối đạo:

- Lần thứ nhất, sau một tháng bị tra khảo, ngày 19.01.1840 thày đã nhát sợ bước qua Thánh Giá. Thế nhưng Tổng đốc Trịnh Quang Khanh vẫn chưa tha cho thày về ngay, còm muốn thử xem thày có thật lòng bỏ đạo không. Khi lính đưa thày già về ngục, cha Giuse Hiển đã ân cần nhủ khuyên thày thống hối và tiếp tục tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa.

- Lần thứ hai, ngày 18.04, quan Trịnh Quang Khanh bắt hai người đã xuất giáo đến xúi giục thày Toán, và dọa nếu không thành công sẽ giết cả hai. Những người này năn nỉ khóc lóc xin thày thương kẻo họ bị chết, và họ nói nhiều lời phạm đến Chúa và Đức Mẹ suốt hai ngày liền. Để họ khỏi phạm thượng, thày Toán một lần nữa lại bước qua Thánh Giá. Lần này thấy mình quá dại dột để bị đánh lừa, thày thống hối khóc lóc đêm ngày không ai ngăn cản được. 15 ngày sau, cha Đaminh Trạch bị bắt cũng được dẫn tới giam chung một ngục, cha an ủi và giải tội cho thày. Từ đây thày trở thành một con người mới, đủ sức đương đầu cách phi thường với những thử thách nặng nề hơn trước.

Không gì lay chuyển

Ngày 09.05, trước khi xử chém cha Giuse Hiển, thày Toán cũng bị đưa ra tòa với cha. Sau khi hai vị cương quết không đạp lên Thập Giá, quan cho quản tượng lùa hai thớt voi đến sau lưng húc xô hai vị. Thày Toán và cha Hiển bình tĩnh cố tránh qua một bên, nhật định không bước qua Thập Giá. Trịnh Quang Khanh tức giận truyền đưa thày già về ngục, và lệnh đưa vị linh mục ra pháp trường xử chém tức khắc.

Một hôm viên quan khôi hài nói với lính: “Dẫn lão Toán ra đây để nó bước qua Thập tự, kẻo nó quên”. Nhưng ông hoàn toàn thất vọng, người chiến sĩ đức tin lần này gan dạ lạ lùng, dù bị tra tấn dã man, thày vẫn một lòng trung thành với đạo Chúa. Sau một trận đòn tưởng chết, quân lính lôi thày bước qua Thánh Giá, thày liền vùng dậy quỳ phục xuống đọc kinh Aên Năn Tội, quan giận dữ cho giam thày nơi khác, bắt nhịn ăn, nhịn khát, và chi lính muốn bày trò hành khổ gí tùy ý.

Thế là quân lính liền lột hết quần áo thày, buộc hai Thánh Giá nhỏ vào hai bàn chân, bắt phơi nắng 13 ngày liền không được ăn uống gì cả. Trong khi đó, chúng vây quanh trêu chọc thày: bứt râu giựt tóc, nhéo tai, vuốt mũi. Khi thấy thày rơi vào tình trạng đói cực độ, người như lả đi, quan Trịnh Quang Khanh âm mưu cho dọn một mâm cơm rượu thịt thơm ngon và nói: “Ăn đi, rồi bước qua Thập tự”. Nhưng vị anh hùng đức tin thà chết đói hơn là phải bỏ đạo, thày nói: “Nếu ăn mà phải xuất giáo, tôi không bao giờ ăn cả”. Quan tức mình tống giam, bắt thày nhịn đói thêm năm ngày nữa cho chết rũ tù. Có người lính canh tên Thám tội nghiệp, ngấm ngầm tiếp tế đôi chút, nhưng rồi anh bị phát hiện và bị quan trừng phạt.

Cho tới hơi thở cuối cùng.

Từ đó thày già Toán phải chịu đói khát hoàn toàn cho đến khi ngã gục và tắt hơi thở trong tù ngày 27.06.1840. thi hài thày Toán được chôn cùng với xác tù nhân. Bẩy tháng sau, anh dậu cải lên an táng tại Lục Thủy chung với nhiều vị tử đạo khác.

Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn thày Tôma Toán lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh


Ngày 28 tháng 06
Thánh Irenaeus
(130?-220)

Các văn bản của Thánh Irenaeus giúp ngài có một địa vị cao trọng trong các giáo phụ của Giáo Hội, vì các tư tưởng ấy không những giúp hình thành nền tảng thần học Kitô Giáo mà còn phô bầy và bài bác các sai lầm của phe Gnostic, gìn giữ được đức tin Công Giáo khỏi những nguy hiểm của lạc thuyết.

Có lẽ ngài sinh vào khoảng năm 125, trong một vùng ven biển của Tiểu Á là nơi có đông người Kitô Giáo và ký ức về các tông đồ vẫn còn được trân quý. Ngài chịu ảnh hưởng rất nhiều của Thánh Polycarp là người đã từng được gặp các tông đồ hoặc các môn đệ trực tiếp của các ngài.

Khi các linh mục và nhà thừa sai người Á Châu đem tin mừng đến cho người Gaul và thiết lập một giáo hội địa phương ở Lyon, Thánh Irenaeus đã phục vụ ở giáo phận này dưới quyền vị giám mục đầu tiên là Thánh Pothinus. Vào năm 177, Irenaeus được sai đến Rôma, vì thế ngài không được phúc tử đạo như Ðức Pothinus trong thời kỳ bách hại ở Lyons. Khi trở về, ngài kế vị đức giám mục trông coi giáo phận.

Vào lúc ấy, tuy sự bách hại không còn nhưng lạc thuyết Gnostic tràn lan khắp xứ Gaul. Khi thấy các Kitô Hữu bị ảnh hưởng nặng nề bởi lạc thuyết, ngài biết việc phải làm là phô bầy các lầm lạc của phe Gnostic. Ngài viết năm cuốn sách mà trong đó nêu ra các sai lầm nội tại của các lạc thuyết, đồng thời so sánh các thuyết ấy với Kinh Thánh và giáo huấn của các Tông Ðồ. Công trình này, được viết bằng tiếng Hy Lạp mà ngay sau đó được dịch sang tiếng La tinh, được lưu hành rộng rãi và rất thành công trong việc đối phó với phe Gnostic. Từ đó trở đi, ở bất cứ cấp độ nào, lạc thuyết Gnostic không còn là một đe dọa đối với đức tin Công Giáo.

Một nhóm Kitô Hữu ở Tiểu Á bị Ðức Giáo Hoàng Victor III ra vạ tuyệt thông vì họ không chấp nhận ngày tháng cử hành lễ Phục Sinh của Giáo Hội Tây Phương. Thánh Irenaeus đã can thiệp với đức giáo hoàng để rút lại hình phạt này, ngài cho thấy đó không phải là vấn đề quan trọng vì họ theo thói quen cũ mà Ðức Polycarp và Ðức Giáo Hoàng Anicetus không coi đó là sự chia cắt trong Giáo Hội. Ðức giáo hoàng đã phản ứng cách thuận lợi và hàn gắn được sự bất hòa.

Người ta không rõ Thánh Irenaeus từ trần vào lúc nào, nhưng tin là vào năm 202. Thi hài của ngài được chôn trong hầm mộ trong cung thánh của nhà thờ Thánh Gioan, và sau đó được đổi tên là Thánh Irenaeus. Vào năm 1562, nhà thờ và hầm mộ của ngài bị phe Calvin tiêu hủy, mọi thánh tích của ngài dường như cũng tiêu tan.


Phêrô Tông Đồ
Ngày 29 tháng 06
THÁNH PHÊRÔ VÀ THÁNH PHAOLÔ, TÔNG ĐỒ


Khi đọc lại lịch sử của hai vị thánh Phêrô và Phaolô, nhân loại không khỏi ngạc nhiên vì hai con người này hai tính khí khác nhau, hai nền giáo dục khác nhau, nhưng đã bổ túc cho nhau khiến hai Đấng trở nên cột trụ vững chắc cho Giáo Hội của Chúa Kitô ở trần thế. Thánh Phêrô,vị tông đồ trưởng đã bộc trực thưa với Chúa Giêsu ba lần “ Ngài yêu mến Chúa”, nhưng sau đó lại chối Chúa ba lần. Còn thánh Phaolô, một con người bắt bớ Giáo Hội của Chúa, đã bị Chúa làm cho tan nát trên đường đi Đamas.

HAI KHUÔN MẶT. MỘT NIỀM TIN

Tin mừng Matthêu thuật lại, các môn đệ sau khi theo Chúa một thời gian khá dài, có nhiều dư luận nói về Chúa Giêsu, người thì bảo là Êlia, người bảo là Giêrêmia hay là một ngôn sứ nào đó,còn các môn đồ nghĩ sao? Chúa Giêsu muốn biết tấm lòng và sự hiểu biết của các tông đồ đối với Chúa Giêsu như thế nào và đây là điều Ngài muốn biết. Ông Simon Phêrô vẫn nhanh nhảu, nóng nảy, bộc trực đã thưa với Chúa Giêsu:” Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”( Mt 16, 16 ). Chúa Giêsu đã rất hài lòng về câu trả lời của Phêrô và đây là câu trả lời Chúa Giêsu muốn biết. Đức Giêsu nói với Simon Phêrô:” Này anh Simon, con ông Gio-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”( Mt 16,17 ).Đức tin của Phêrô đã giúp Ông thốt lên và tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Chính nhờ đức tin, sự xác tín và sự tuyên xưng của Simon Phêrô, Chúa Giêsu đã đatë thánh Phêrô làm đầu Hội Thánh ( Mt 16, 18 ). Còn Phaolô,sau khi bị Chúa đánh cho ngã ngựa trên đường Đamas đang khi thực hiện ý đồ triệt hạ các môn đệ và Giáo Hội của Chúa, Phaolô đã nghe tiếng Chúa nói:” Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta ? . Ông nói:” Thưa Ngài, Ngài là ai ?. Người đáp:”Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ.”(Cv 9, 4-5 ). Sao-lô tức Sa-un đã được Khanania đặt tay chữa lành và làm cho Sa-un được sáng mắt do quyền năng của Chúa và Ông đã lại thấy được, Ông đứng dậy và lãnh nhận phép rửa( Cv 9,17-19 ).Từ hôm đó Ông đã mạnh dạn rao giảng về Chúa khiến nhiều người Do Thái ngạc nhiên tự hỏi:” Ông này chẳng phải là người ở Giêrusalem vẫn tiêu diệt những ai kêu cầu danh Giêsu sao ? Chẳng phải ông đã đến đây với mục đích bắt trói họ giải về cho các thượng tế sao?”( Cv 9, 21 ). Phaolô đã làm bẽ mặ tnhững người Do Thái ở Đamát, khi minh chứng rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia( Cv 9, 22 ).

Thánh Phaolô đã được các tông đồ tin tưởng nhờ đó Ông và các tông đồ đi lại hoạt động tại Giêrusalem. Ông mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa ( Cv 9, 28 ). Thánh Phêrô và thánh Phaolô mỗi người một cách suy nghĩ, mỗi người một tính khí nhưng dưới ánh sáng của Tin Mừng, dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, hai Ngài đã trở thành hai cột trụ vững chắc cho Giáo Hội nhờ đức tin của các Ngài được Chúa củng cố.

THÁNH PHÊRÔ VÀ THÁNH PHAOLÔ NÊU GƯƠNG TÔNG ĐỒ CHO TA

Dù thánh Phêrô đã chối Chúa tới ba lần, dù trước đó Ngài đã cương quyết theo Thầy tới cùng, nhưng khi nghe Chúa loan báo cuộc thương khó Ngài phải chịu để cứu độ nhân loại, Phêrô không thể hiểu được Thầy mình, Ông đã cản ngăn đường Chúa đi, Chúa đã khiển trách Phêrô rất nặng lời, cho ông là Satan, ma quỉ. Nhưng Phêrô đã nhận ra con người của Chúa sau ba lần chối Thầy. Phêrô cũng chỉ nhận ra tình yêu và lòng xót thương của Chúa sau những giọt nước mắt tang thương, ăn năn, sám hối. Còn Phaolô chỉ nhận ra Chúa khi Ông hăm hở, lấc cấc, hăng say truy lùng, bắt bớ các môn đệ của Chúa. Ông chỉ hiểu được lòng tha thứ và tình thương của Chúa khi Ông ngã ngựa và đôi mắt bị mù lòa trên đường Đamas. Hai thánh nhân đều ý thức việc quay trở lại với Chúa, đều cảm nghiệm tình thương xót hải hà của Chúa. Hai Ngài đã rất thực, sống hoàn toàn như mình nghĩ và cũng hồi sinh mau chóng khi hiểu được con người đầy xót thương của Chúa Giêsu. Nên, dù hai tính khí, hai nền giáo dục, hai khả năng, hai cách làm việc khác nhau, thánh Phêrô và thánh Phaolô đã bổ túc cho nhau để xây dựng Giáo Hội của Chúa vững chắc ở trần gian này.

Hai vị thánh tông đồ đã nêu gương sáng cho nhân loại, cho Hội Thánh, cho từng người về lòng nhiệt thành, sự can đảm và sự say mê truyền giáo của các Ngài. Hai Ngài còn cho nhân loại thấy dù yếu hèn, dù tội lỗi, dù kém tài, Chúa vẫn luôn dùng tới nếu con người biết tin, cậy và quay trở về với Chúa. Mỗi một con người đều có chỗ đứng trong trái tim Chúa. Chúa thương yêu con người không chung chung, có lệ, nhưng Chúa gọi tên từng người một vì “Ta biết chiên và chiên biết Ta “.Chúa dùng mọi người, dùng mỗi người với tất cả những gì đang có, những khuyết điểm, những hạn hẹp của con người, Chúa xử dụng tất cả để làm phong phú, đa dạng và làm nổi bật quyền năng, uy dũng của Ngài. Lễ hai thánh Phêrô và Phaolô là lễ kính mầu nhiệm Hội Thánh đặt nền tảng trên các Ngài. “Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con được vui mừng hoan hỷ nhân ngày đại lễ kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Chính nhờ các Ngài, Hội Thánh đã bắt đầu đón nhận đức tin, xin cho Hội Thánh cũng luôn trng thành tuân giữ lời các Ngài giảng dậy” ( Lời nguyện nhập lễ, lễ hai thánh Phêrô và Phaolô, tông đồ )


Ngày 30 tháng 06
Các Vị Tử Ðạo Tiên Khởi ở Rôma
(c. 68 A.D.)

Nhiều năm sau khi Ðức Giêsu về trời, chỉ có khoảng một chục người Kitô Giáo ở Rôma, dù rằng họ không phải là những người tòng giáo của "vị tông đồ Dân Ngoại" (Rom 15:20). Khi Thánh Phaolô viết lá thư ấy vào khoảng 57-58 A.D. thì ngài chưa đến thăm họ.

Ở Rôma có nhiều người Do Thái. Có lẽ vì sự tranh chấp giữa những người Do Thái truyền thống và Do Thái theo Kitô Giáo mà Hoàng Ðế Claudius đã trục xuất tất cả người Do Thái ra khỏi Rôma trong những năm 49-50 A.D. Sử gia Suetonius nói rằng việc trục xuất là vì những xáo trộn trong thành phố "gây nên bởi một vài Kitô Hữu." Có lẽ sau khi Claudius từ trần, nhiều người đã trở lại đây vào năm 54, vì lá thư của Thánh Phaolô dường như viết cho một giáo đoàn Dân Ngoại đông đảo.

Vào tháng Bảy năm 64, hơn một nửa thành phố Rôma bị tiêu hủy vì hỏa hoạn. Người ta đồn rằng chính Hoàng Ðế Nero đã gây ra thảm kịch này vì muốn nới rộng cung điện của ông. Nero đã mưu mô đánh lạc hướng bằng cách kết tội người Kitô Giáo. Theo sử gia Tacitus, một "số đông" Kitô Hữu đã bị chết vì "sự thù hận của con người." Thánh Phêrô và Thánh Phaolô có lẽ cùng chung số phận với những người này.

Lời Bàn

Bất cứ đâu Tin Mừng của Ðức Giêsu được rao giảng, ở đó có sự chống đối như Ðức Giêsu đã từng gặp, và nhiều người theo Ngài đã chia sẻ sự đau khổ và sự chết của Ngài. Nhưng không một sức lực nào của loài người có thể ngăn chặn quyền năng của Thần Khí đang giải thoát thế giới. Máu của các vị tử đạo đã từng là, và sẽ luôn luôn là hạt giống đức tin.

Lời Trích

Ðức Giáo Hoàng Clêmentê I, người kế vị Thánh Phêrô đã viết: "Chính vì sự đố kỵ và ghen ghét mà các trụ cột vĩ đại và chính trực của Giáo Hội đã bị bách hại và đã chiến đấu cho tới chết... Trước nhất, Thánh Phêrô, vì sự ghen tương vô lý ngài phải đau khổ không chỉ một hoặc hai lần nhưng nhiều lần, và như thế ngài đã hy sinh làm chứng, đã đến nơi vinh hiển mà ngài đáng được. Vì sự đố kỵ và tranh chấp, Thánh Phaolô đã cho thấy cái giá của sự kiên trì. Ngài bị xiềng xích bảy lần, bị lưu đầy, và bị ném đá; là một sứ giả từ đông sang tây, ngài đáng được kính phục vì đức tin của ngài...

"Chung quanh các đấng ấy là một đám đông những người được tuyển chọn, mặc dù là nạn nhân của sự ghen ghét, họ đã đem cho chúng ta gương mẫu cao quý nhất về sự chịu đựng khi bị tra tấn và sỉ nhục. Vì sự đố kỵ mà các phụ nữ phải đau khổ, như bà Dirce hoặc các con gái của Danaus, họ phải đau đớn khủng khiếp vì các hành động thô bạo. Nhưng họ đã can đảm chu toàn đức tin bất kể sự yếu đuối của thân xác và đã chiếm được phần thưởng cao quý."


Ngày 30 tháng 06
Thánh Vinh Sơn Đỗ Yến
Linh mục dòng Đaminh - (1764 - 1838)

Ông lão lang thang.

Vinh Sơn Đỗ Yến được họa lại dưới chân dung một cụ già tuổi ngoài thất tuần, râu tóc bạc phơ sau hơn bốn mươi năm tận tụy với đoàn chiên Chúa tại nhiều giáo xứ ở Hải Dương. Như lương y tận tâm với con bệnh, vị linh mục cao niên khả kính, đạo dức, hiền từ ấy đã luôn hiện diện giữa giáo hữu trong mọi cơn thử thách. Giờ đây khi nhà vua gắt gao truy lùng các linh mục và hăm dọa phá bình địa khu vực giám chứa chấp bất cứ đạo trưởng nào, vị tông đồ lão thành không muốn gây liên lụy cho đoàn chiên, đã từ giã xứ Kẻ Sặt thân thương lên đường bước tới một phương trời vô định. như Đức Kitô xưa “cáo có hang, chim có tổ, nhưng con người không chỗ tựa đầu”. Cuộc li biệt đoàn chiên yêu quí dưới thế đã đưa cha Vinh Sơn Đỗ Yến đến đoàn tụ với các thánh trên trời: Vị cha già đã lãnh triều thiên tử đạo làm phần thưởng muôn đời Thiên Chúa trao ban.

Linh mục dòng thuyết giáo

Vinh Sơn Đỗ Yến chào đời năm 1764 (thời Hậu Lê), tại Trà, xứ Phú Nhai, tỉnh Nam Định. Đây là một miền đất “phì nhiêu” đã phát sinh nhiều vị thánh: Vinh Sơn Liêm, Tôma Dụ, Đaminh Đạt. Cậu Vinh Sơn Yến theo lời Chúa gọi sống đời tu trì ngay từ thời niên thiếu. Sau một thời gian rèn luyện nhân đức và học hỏi các môn triết, thần, thày được Đức Giám Mục Delgado Y phong chức linh mục năm 1798. Người ta tưởng cuộc đời tông đồ của ngài kết thúc ngắn ngủi, vì ngài đã bị bắt trong cơn cấm đạo cuối đời cảnh Thịnh. Nhưng may mắn nhờ các tín hữu dùng tiền chuộc lại, cha đã được tha về.

Ngày 22.07.1807, cha Vinh Sơn Đỗ Yến lãnh áo dòng Đaminh và được tuyên khấn năm sau. Đời tu dòng giúp cha kết hiệp mật thiết hơn với tình yêu Chúa. Ngài sống rất khiêm tốn, thường hy sinh hãm mình và thầm lặng lâu giờ trong chiêm niệm. Tâm hồn luôn bùng cháy lòng mến yêu, cha nhiệt tâm với tông đồ truyền giáo, không nề quản mệt nhọc hay hiểm nguy đến tính mạng. Dưới triều Gia Long (1802-1820) và đầu thời Minh Mạng cha Vinh Sơn Yến thi hành sứ mệnh tông đồ trong bầu không khí bình an. Thoạt tiên cha đảm trách giáo xứ Kẻ Mốt, sau chuyển sang xứ Kẻ Sặt, thuộc tình Hải Dương. Nơi nào Ngài cũng hết mình củng cố đức tin cho các tín hữu và hoán cải nhiều người ngoại giáo tin theo đạo Chúa. Các tín hữu khẳng định ngài luôn vui tươi khôn ngoan, bình tĩnh, dịu hiền và thánh thiện.

Bước chân lưu lạc

Năm 1838, vua Minh Mạng truyền các quan chức phải triệt để thi hành chiếu chỉ cấm đạo tại các giáo phận Đàng Ngoài. Nhiều giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo hữu đã anh hùng hy sinh mạng sống vì trung thành với đức tin. Nhiều thánh đường chủng viện, nhà chung bị tàn phá. Cha Vinh Sơn Đỗ Yến, chánh sứ Kẻ Sặt, rất đau lòng chứng kiến cảnh các con chiên mình chịu cưỡng bách hạ ngôi thánh đường khang trang do công sức vất vả và tiền bạc họ đóng góp để xây dựng nên. Vì thuơng đoàn chiên đang cảnh ngộ gian nan, ngài ở lại giữa họ, nay ở nhà này, mai ở nhà khác, ban đêm lo cử hành phụng vụ dâng lễ, ban ngày đến khuyên bảo các tín hữu và ban bí tích cho họ. Tất cả những điều đó cha phải làm kín đáo tương tự thời sơ khai của Giáo Hội.

Nhưng khi hay tin cha Vinh Sơn Yến vẫn còn lẫn trốn trong xứ Kẻ Sặt, các quan liền cho tăng cường kiểm soát chặt chẽ, quyết lùng bắt ngài cho kỳ được, và dọa tàn phá bình địa làng Sặt. Vì muốn giáo hữu được yên ổn, vị chủ chăn âm thầm ra đi, mang theo nỗi niềm đau xót phải xa cách đoàn chiên yêu quý. Cha hoàn toàn tín thác mọi sự vào bàn tay quan phòng.

Trước hết cha đến họ Thừa, nhưng thấy nơi đây không bảo đảm, ngài lại lên đường đến họ Lực Điền (Hưng Yên). Đường xa mệt mỏi, ngào dừng chân nghỉ dưới bóng bụi tre. Một khách bộ hành đi qua hỏi: "Ông lão đi đâu sao lại ngồi đây ?” Để giấu tung tích, cha liền giả vờ hỏi xem đường nào đi Kẻ Sặt, đường nào về Lực Điền. Người khách chỉ giúp rồi bỏ đi tiếp tục cuộc hành trình, ngày 08.06 cha gặp ông Cai Phan. Ông làm bộ thương cảm nài nỉ ngài nên ở nhà mình. Thế rồi ông trở mặt bắt ngài, cho đóng gông và giải về Hải Dương. Khi hay tin giáo xứ Kẻ Sặt và Lực Điền đem trâu và tiền đến chuộc, nhưng ông Cai nhất định không cho vì hy vọng được quan ban thưởng nhiều hơn. Cha Vinh Sơn phải hết lời khuyên can mới ngăn được hai họ khỏi dùng vũ lực để giải thoát ngài.

Tại Hải Dương 3 ngày sau vị tông đồ được đưa ra trước công đường. Quan tuần phủ tỉnh này vốn lòng nhân hậu, lại có lời can thiệp của ông lang Hàn, y sĩ chữa bệnh cho quan, nên không muốn vấy máu người có đạo, ông xin vị linh mục tự nhận là lang y để ông phóng thích. Vị chứng nhân trả lời: “Không, tôi không phải là thày lang. Tôi là thày cả chuyên giảng đạo và tế lễ Thiên Chúa. Tôi sẵn lòng chịu chết vì lẽ đó, chứ không nói dối để được sống”.

Quan tìm cách khác để trả tự do cho cha Yến. Ông truyền vẽ vòng tròn xung quanh chỗ cha đứng, bảo ngài bước qua đó như bước quan Thánh Giá vậy. Một lần nữa vị tuyên xưng đức tin lại cương quyết từ chối: “Làm như thế không khác nào tôi chối đạo”. Quan tuần phủ thấy không thể làm lay chuyển đức tin của vị linh mục lão thành, liền làm sớ tường trình vế kinh. Nhưng vì không muốn đích thân xử án người vô tội, quan xin phép triều đình cho giải cha về tỉnh nguyên quán là Nam Định.

Giờ ân thưởng

Vua Minh Mạng không chấp thuận và kết án tử hình ngay. Bản án ký ngày 20.06.1838, vế tới Hải Dương ngày 30.06, nội dung như sau:

“Đỗ Yến bản quốc là đạo trưởng Gia Tô, bị bắt mà không chịu bỏ đạo, thật là người ngu muội cố tình không theo đường phải, vậy trảm quyết ngay đem về Nam Định làm gì?”.

Trong 3 tuần lễ bị giam, nhờ sự can thiệp của ông lang Hàn, cha Vinh Sơn Yến không phải mang gông xiềng, được phép nhận lương thực giáo hữu thăm nuôi khá đầy đủ. Ngày đêm ngài chỉ chuyên cần nguyện kinh và trầm lặng trong suy niệm lâu giờ.

Ngày 30.06.1838, quan tuần phủ thi hành ngay bản án mới nhận được. Cha Vinh Sơn hiên ngang tiến ra pháp trường ớ ngã tư, gần họ Bình Lao, cách thành Hải Dương một cây số vế phía Tây. Gương mặt hiền từ của vị linh mục lão thành đáng kính với dáng điệu thanh cao khiến nhiều người xúc động. Tới nơi ngài quỳ gối cầu nguyện thật sốt sắng, rối lý hình thi hành phận sự. Chỉ một nhát gươm vung lên đầu vị tử đạo rơi xuống đất.

Quan tặng một tấm vải đế tẩm liệm và truyền khâu đầu vị tử đạo vào cổ, rối cho phép tín hữu họ Bình Lao đưa về an táng. Tám tháng sau, tín hữu cải táng vào nhà thờ Thọ Ninh. Khi cải táng người ta thấy thi hài của cha Vinh Sơn còn nguyên vẹn như mới ly trần. Ông Trưởng Dong một người ngoại giáo, được chứng kiến tận mắt đã nói: “Thật là người sống khôn thác thiêng, đã tám tháng mà không tiêu hao chút nào, không hôi tanh lại thoảng mùi thơm tho nữa.”

Anh hùng tử đạo Vinh Sơn Đỗ Yến, linh mục dòng Đaminh, đã được Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn chân phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
 

hthaith

Thành viên tích cực
Ðề: Lịch Phụng Vụ 6/2011

Thứ Sáu 03 Đ
Thứ Sáu Đầu Tháng. Đền tạ Trái Tim Chúa Giêsu, mis.imp
Lễ nhớ Thánh Charles Lwanga và các bạn tử đạo
Cv 18: 9-18 Tv 47: 2-3, 4-5, 6-7 Ga 16: 20-23

Thứ Bảy 04 Tr
Thứ Bảy Đầu Tháng. Đền tạ Trái Tim Đức Mẹ, mis.imp
Cv 18: 23-28 Tv 47: 2-3, 8-9, 10 Ga 16: 23-28

Chúa Nhật 05 Tr
Chúa Nhật thứ VII Mùa Phục Sinh
Lễ nhớ Thánh Boniface, Gmtđ
Cv 1: 12-14 Tv 27: 1, 4, 7-8 1 1Pr 4: 13-16 Ga 17: 1-11
Kính thánh tử đạo Luca Vũ Bá Loan, Lm, Đaminh Toại, ngư phủ, Đaminh Huyên, ngư phủ

Ngày 03 tháng 06
THÁNH CARÔLÔ LWANGA và CÁC BẠN TỬ ĐẠO

“ Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc, dành sẵn cho các ngươi, ngay từ lúc tạo thành trời đất”( Mt 25, 34 ).Thánh Carôlô Lwanga và các bạn tử đạo đã làm cho Hội Thánh Ouganda càng lúc càng phát triển. Các Ngài xứng đáng lãnh nhận triều thiên trên trời.

HỘI THÁNH OUGANDA ĐƯỢC LỚN LÊN NHỜ MÁU CÁC THÁNH CARÔLÔ LWANGA và CÁC BẠN TỬ ĐẠO: “ Máu của các Kitô hữu làm nẩy sinh Giáo Hội” hay “ Máu vị tử đạo là hạt giống của các Kitô hữu”. Thánh Carôlô Lwanga luôn khích lệ, động viên các bạn kiên cường, tuyên xưng danh Chúa dẫu có phải hy sinh tới cả mạng sống của mình. Các thánh tử đạo Ouganda thuộc mọi lứa tuổi: có vị như Matthias mới lên 5 tuổi, thánh Kitô mới có 13 và các vị khác lớn hơn từ 16 tới 24 tuổi đời. Các Ngài đã hy sinh thí mạng sống của mình, đã đi con đường đức tin, con đường thập giá, con đường tình yêu như Thầy chí thánh Giêsu, những hình phạt như ném đá, voi dày, đòn vọt, gông cùm, xiềng xích không làm chùn bước các Ngài. Các Ngài đã cảm nghiệm sâu xa lời của Chúa:”Tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác, ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá”( 1Co 2, 2 ) . Hai mươi hai thánh tử đạo Ouganda trong đó có bốn vị chưa được chịu phép rửa tội, thánh Carôlô đã động viên, dậy dỗ và rửa tội cho họ trước khi các Ngài được phúc tử đạo. Hội Thánh Ouganda chỉ thực sự được phát triển và lớn mạnh nhờ máu của các vị tử đạo mà Giáo Hội mừng kính hôm nay.

CHÚA THƯỞNG CÔNG CÁC NGÀI:

Cảm nghiệm sâu xa lời sách khải huyền:” Ai thắng, Ta sẽ cho ăn quả cây sự sống, trồng ở trên thiên đàng của Thiên Chúa”( Kh 2, 7 ). Thánh Carôlô Lwanga và hai mươi mốt bạn được phúc tử đạo, đã lãnh triều thiên nước trời. Chúa thưởng công các Ngài, Giáo Hội trần thế tôn vinh các Ngài. “Lạy Chúa, Chúa đã cho máu tử đạo làm nẩy sinh thêm nhiều Kitô hữu. Xin cho máu của thánh Carôlô Lwanga và các bạn đã tưới xuống cánh đồng Hội Thánh cũng đem lại một mùa lúa dồi dào”( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Carôlô Lwanga và các bạn tử đạo ).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT


Ngày 05 tháng 06
Thánh Boniface

(672-754)

Thánh Boniface, vị tông đồ của người Ðức, là một đan sĩ người Anh thuộc Dòng Biển Ðức, đã hy sinh vinh dự khi được chọn làm đan viện trưởng để tận hiến cuộc đời trong việc hoán cải các sắc tộc ở Ðức. Ngài có hai đặc tính nổi bật: Kitô Giáo chính truyền và trung thành với đức giáo hoàng ở Rôma.

Thánh Boniface, tên thật là Wilfrith, sinh ở Anh Quốc. Ngay khi còn nhỏ, hình ảnh cao quý của các đan sĩ truyền giáo đã in sâu trong tâm khảm của ngài, do đó, khi bảy tuổi ngài đã nài nỉ xin theo học trường dòng, dù rằng cha ngài mong muốn cho con một sự nghiệp ở ngoài đời.

Lớn lên, ngài làm giám đốc một trường học ở Nursling, Winchester, tại đây ngài là người đầu tiên viết về văn phạm Latinh bằng tiếng Anh, cũng như sáng tác nhiều bài diễn giảng được nhiều người sao chép và phổ biến.

Năm ba mươi tuổi, ngài được thụ phong linh mục và đi rao giảng ở Friesland (thuộc Hòa Lan bây giờ), nhưng không bao lâu ngài phải trở về Nursling vì cuộc chiến giữa vua ngoại giáo của Friesland và Charles Martel của Pháp.

Sau cái chết của đan viện trưởng, các đan sĩ ở Nursling tìm cách giữ chân ngài bằng cách bầu ngài làm đan viện trưởng, nhưng ngài đã từ chối để tận hiến cho công cuộc truyền giáo.

Năm 718, ngài đến Rôma để gặp Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô II, là người sai ngài đi truyền giáo cho người Ðức ở Hesse và Bavaria.

Ở Hesse, trước sự hiện diện của đám đông người ngoại giáo rất tin dị đoan, ngài đã chặt cây Sồi Thần Linh ở Geismar to lớn và già nua, được dân ngoại dâng cúng cho thần Thor. Người ta kể rằng chỉ sau vài nhát rìu, cây sồi đã lung lay và sụp đổ, tách ra làm bốn cho thấy sự mục nát bên trong. Ðó là khởi đầu của một công cuộc truyền giáo rất thành công của Thánh Boniface và cũng là hạt giống đức tin cho một giáo hội đầy sinh lực ở Ðức, mà sau này Thánh Boniface được tấn phong làm giám mục ở đây. Ngài xin các Kitô Hữu ở Anh hỗ trợ công cuộc truyền giáo của ngài và họ đã đáp ứng với tiền bạc, sách vở, vật liệu, và nhất là thường xuyên cung các các đan sĩ để giúp đỡ ngài trong việc giảng dạy.

Thánh Boniface không chỉ hạn chế hoạt động ở nước Ðức. Ngài còn giúp hình thành sự tương giao giữa Ðức Giáo Hoàng và các vua ở Ý cũng như ở Pháp. Ngài thúc giục các thái tử kế vị vua Charles của Pháp triệu tập công đồng để cải tổ giáo hội trong các phần đất của họ, là nơi chức giám mục được bán cho những người trả giá cao nhất.

Ngài không bao giờ quên sự thất bại ở Friesland, do đó khi về già, ngài từ chức giám mục và trở về hoạt động ở đây với sự thành công đáng kể. Vào một ngày trong tháng Sáu năm 754, khi ngài đang chuẩn bị cho người Friesland chịu phép Thêm Sức thì tất cả bị tấn công và bị giết chết bởi các chiến sĩ ngoại giáo.



Chỗ em đang ở cũng gần nhà thờ Saint Boniface, em thì chỉ đi lễ Mỹ thôi (Làm biếng nên đi nhà thờ gần nhà đó mà). Chờ mãi hổng thầy Bác Langvuon post lịch Phụng vụ tháng 08, nay lại qua tháng 09 rồi bác Langvuon ui.

Trong tháng hôm nào có lễ trọng mà em không đi nhà thờ do...... hổng biết vì Bác không post để còn theo dõi. Mai mốt có xuống âm phủ cũng kéo Bác theo cho vui đó (Lúc đó diêm vương có hỏi, em đổ thừa tại Bác không post nên tui hổng biết).

Y vậy nhe bác Langvuon.
 

langvuon

khoai nướng
Ðề: Lịch Phụng Vụ 6/2011

Trong tháng hôm nào có lễ trọng mà em không đi nhà thờ do...... hổng biết vì Bác không post để còn theo dõi. Mai mốt có xuống âm phủ cũng kéo Bác theo cho vui đó (Lúc đó diêm vương có hỏi, em đổ thừa tại Bác không post nên tui hổng biết).

Y vậy nhe bác Langvuon.[/B]
Đang theo dõi lịch bay nên quên mất lịch Phụng Vụ, thanks anh Hthaith đã nhắc nhở.
Lang đang còn yêu đời , yêu nhiều người lắm nên chưa đặt vé sớm xuống thăm Diêm Vương đâu àh. Nếu anh Hthaith có gặp LÃO thì cho langv gửi lời thăm nghen, bảo LÃO hôm nào gặp nhậu không say không về .. trần. Dù sao cũng là bạn bè tình nghĩa lâu nay chưa gặp :6: