Phật giáo - Nghệ thuật sống

Status
Không mở trả lời sau này.

PhuongChau

Diễn đàn XNC
#41
Nhận thức về vô thường

Nếu “nhận thức về vô thường” được tu tập như vậy ngay trên tự thân, được làm cho sung mãn như vậy ngay trên tự thân ngủ uẩn, thì “tất cả dục tham được chấm dứt, tất cả sắc tham được chấm dứt; tất cả hữu tham được chấm dứt; tất cả vô minh được chấm dứt; tất cả ngã mạn được tận trừ.


Ành minh họa -Nguồn: Internet

Tất cả các Pháp Hữu Vi là vô thường!

Đó là một sự thật! Cũng là lời di huấn cuối cùng của Đức Bổn Sư dành cho chúng ta trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Trường Bộ Kinh:

“Này các tỷ kheo, Tất cả các Pháp Hữu Vi là vô thường, hãy tinh tấn chớ có phóng dật”

Là người con Phật chúng ta cần suy nghiệm cho thật kỹ về lời di huấn tối hậu này của bậc từ Phụ.

Sự thật Vô Thường này là đương nhiên, đang phơi bày chính nó, ngay trước mặt của chúng ta, 24/7, không có gián đoạn ngay cả lúc ta đang ngủ.

Vô thường không bị chi phối bởi thời gian, tức là tất cả Pháp vô thường trong cả ba thời: quá khứ, hiện tại, và tương lai.

Vô thường không bị giới hạn trong không gian, tức là cả vũ trụ này vô thường, cả thiên giới, ma giới, và nhân giới đều vô thường.

Ngay cả thân ngũ uẩn của ta cũng vô thường: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều vô thường.

Vô thường là sự thật không phụ thuộc vào nhận thức của bạn, tức là bạn có nhận ra, hay không nhận ra, điều đó không có thay đổi được gì về sự thật này, các pháp vẫn vô thường (nhưng nếu bạn nhận ra và sống đúng với quy luật vô thường thì bạn sẽ bớt khổ). Vì thế hãy đến để thấy đúng như thật như vậy: “Vô Thường”

Vô thường là một sự thật, tuy hiển nhiên như vậy, nhưng không phải ai ai cũng có nhận thức sâu sắc về điều đó. Độ sâu của nhận thức vô thường này tùy thuộc vào công phu tu tập của từng người.

Kết quả của việc làm cho sung mãn nhận thức vô thường này thật to lớn, không thể nghĩ bàn:

Phật dạy trong Kinh Tương Ưng Bộ về lợi ích đó như sau:

Này các Tỳ-kheo:

- Do tu tập, làm cho sung mãn nhận thức về vô thường một cách sâu sắc, tất cả dục tham được chấm dứt, tất cả tham đắm về tất cả các hình tướng được chấm dứt, tất cả khao khát hiện hữu cảnh giới này cảnh giới kia tham được chấm dứt, tất cả vô minh được chấm dứt, tất cả ngã mạn được tận trừ.

Ví như, này các Tỳ-kheo, một người làm ruộng, vào mùa thu, dùng một cái cày lớn cắt đứt tất cả rễ mọc trong khi cày. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, do tu tập, làm cho sung mãn nhận thức về vô thường, tất cả dục tham được chấm dứt, tất cả sắc tham được chấm dứt, tất cả hữu tham được chấm dứt, tất cả vô minh được chấm dứt, tất cả ngã mạn được tận trừ.

Trong ví dụ trên, nhận thức về vô thường được dụ như lưỡi cày lớn và sắc bén, có thể cắt đứt tất cả rể cây trong khi cày. Trong ví dụ này, rể cây ví dụ cho khát ái, vô minh, và ngã mạn; hành động cày bừa chính là việc tu tập. Còn “nhận thức vô thường” là lưỡi cày. Như vậy nhận thức về vô thường là một dụng cụ không thể thiếu của người tu, cũng giống như chiếc cày là dụng cụ không thể thiếu của người nông dân.

Như vậy chúng ta cần phải tu tập nhận thức về vô thường như thế nào, để làm cho lưỡi cày ngày càng sắc bén? Làm thế nào để cho sung mãn “nhận thức vô thường” khiến cho tất cả dục tham được chấm dứt, tất cả vô minh được chấm dứt, tất cả ngã mạn được tận trừ?

Nhận thức về Vô thường về Pháp có hai loại:

Nhận thức về vô thường của hiện tượng thế gian bên ngoài
Nhận thức về vô thường của tự thân bên trong, tức là ngũ uẩn, năm khối cấu tạo nên con người.

Nhận thức về vô thường của hiện tượng thế gian bên ngoài là kết quả của sự quan sát tinh tế chủ quan kết hợp với tư duy hợp lý, để đưa đến kết luận về sự vô thường của thế giới hiện tượng. Nhận thức này được xếp vào Tư Tuệ trong Tam Tuệ của Văn Tư Tu.

Nhận thức về vô thường của tự thân bên trong, tức là ngũ uẩn, chính là gốc rể của sự tu hành vì một khi Ngũ Uẩn, và đặc biệt hơn hết chính ý thức, cũng được nhận ra một cách sâu sắc là vô thường thì đối tượng của ý thức, tức là thế giới hiện tượng, không thể nào thường hằng được.

Như vậy đối tượng chính của nhận thức vô thường là tự thân bên trong chứ không phải là thế giới hiện tượng bên ngoài.

Vì sao? Vì thế giới hiện tượng là thế giới hiện ra cho tự thân kinh nghiệm. Thế giới hiện hữu do tự thân, cho tự thân, và vì tự thân. Khi tự thân còn thì thế giới còn. Khi tự thân diệt, thì thế giới diệt. Một khi tự thân là vô thường, là rổng không, là không thực chất tính, thì thế giới cũng tương ưng.

Sự vô thường của tự thân ngũ uẩn có hai khía cạnh cần phải nhận diện rõ ràng rốt ráo ngay trong sát na đang là của chính nó:

Nhận ra sự sanh khởi ngay trong sát na đang là của chính nó.
Nhận sa sự đoạn diệt ngay trong sát na đang là của chính nó.

Phàm cái gì được sanh ra, cái đó sẽ đoạn diệt! Sanh Sanh Diệt Diệt: Đó chính là vô thường!

Để thiết lập nhận thức sâu sắc về sự vô thường của tự thân thì: Đối với từng uẩn một trong năm uẩn, ví dụ đối với sắc uẩn, chúng ta cần bình thản, chân chánh nhận rõ:

Đây là Sắc
Đây là Sắc tập khởi
Đây là Sắc đoạn diệt.

Tương tự như vậy đối với Thọ, Tưởng, Hành, và Thức:

Đây là Thức
Đây là Thức tập khởi
Đây là Thức đoạn diệt.

Chúng ta cần để ý đến cấu trúc câu “Đây là…X” của Phật dạy. “Đây là...X” chỉ có ý nghĩa nếu nó được nhận diện trong sát na đang là của X. Bằng không cấu trúc câu sẽ mất đi ý nghĩa “như thật- như vậy” của nó và không còn có tính chất phơi bày như một sự thật mà chỉ trở thành một thói quan lầm bầm “Đây là…X”, “Đây là…X” một cách máy móc.

Nếu “nhận thức về vô thường” được tu tập như vậy ngay trên tự thân, được làm cho sung mãn như vậy ngay trên tự thân ngủ uẩn, thì “tất cả dục tham được chấm dứt, tất cả sắc tham được chấm dứt; tất cả hữu tham được chấm dứt; tất cả vô minh được chấm dứt; tất cả ngã mạn được tận trừ.” Tức là đúng như lời dạy của Đức Phật Thích Ca.

Phật Tử làm được như vậy và vị Thừa Tự Pháp, làm cho Chánh Pháp được trường tồn ở thế gian, là con Phật. Là người thi hành đúng Di Giáo của đức Từ Phụ.

Nguyện cho chánh pháp của thế tôn luôn được gìn giữ trong đời sống hàng ngày của từng người Phật Tử vì hạnh phúc thực sự và an lạc thực sự cho muôn loài.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.


Vườn hoa Phật giáo
 

PhuongChau

Diễn đàn XNC
#42
Nền tảng của tình yêu

Nền tảng của đạo phật là Trí tuệ và tình yêu được bắt đầu từ đó. Ngày này có ai biết Phật dậy như thế nào về tình yêu không? Yêu thương theo phương pháp của đạo Phật là tình yêu từ bi hỉ xả, là hiểu biết, và yêu thương.


Ảnh minh họa -Nguồn: Internet

Trong đạo Phật từ bi gắn liền với trí tuệ. Khi có trí tuệ thì chúng ta có thể hiểu nhau. Không hiểu thì không thể yêu thương sâu sắc, không hiểu thì không có tình yêu đích thực. Vì thế, hiểu là nền tảng của tình yêu thương.

Có hiểu thì mới có thương. Mỗi một cá nhân đều có những nỗi niềm, suy nghĩ riêng. Nếu không hiểu sẽ dẫn đến trách móc, giận hờn. Và điều làm cho tình yêu có thể trường tồn mãi mãi là đó sự tin tưởng lẫn nhau. Khi ta tin người khác như tin chính bản thân mình thì mình sẽ không bao giờ nghi ngờ họ, có như thế thì tình yêu thương mới tồn tại được.

Phật dạy về tình yêu rất sâu sắc. Tình yêu phải hội đủ bốn yếu tố: từ, bi, hỉ, xả:

"Từ" là khả năng hiến tặng hạnh phúc cho người mình yêu. Yêu thương không phải là vấn đề hưởng thụ, yêu thương là hiến tặng. Tình thương mà không đem đến hạnh phúc cho người yêu không phải là tình thương đích thực. Yêu mà làm khổ nhau không phải tình yêu. Có những người yêu nhau, ngày nào cũng khổ, đó là tình yêu hệ luỵ, chỉ mang tới sự khổ đau. Yêu thương ai đó thực sự, nghĩa là làm cho người ta hạnh phúc, mỗi ngày.

"Bi" là khả năng người ta lấy cái khổ ra khỏi mình. Mình đã khổ, người ta làm cho thêm khổ, đó không thể là tình yêu đích thực. Còn gì cho nhau nếu chỉ có khổ đau tuyệt vọng. Người yêu mình phải là người biết sẻ chia, biết xoa dịu, làm vơi bớt nỗi khổ của mình trong cuộc đời.

Như vậy, "từ bi" theo Phật dạy là khả năng đem lại hạnh phúc cho nhau. Yêu thương ai là phải làm cho người ta bớt khổ. Nếu không, chỉ là đam mê, say đắm nhất thời, không phải là tình yêu thương đích thực. "Từ bi" trong tình yêu không phải tự dưng mà có. Phải học, phải "tu tập". Cần nhiều thời gian để quan sát, lắng nghe, thấu hiểu những nỗi khổ niềm đau của người yêu, để giúp người ta vượt qua, tháo gỡ, bớt khổ đau, thêm hạnh phúc.

"Hỷ" là niềm vui, tình yêu chân thật phải làm cho cả hai đều vui. Dấu ấn của tình yêu đích thực là niềm vui. Càng yêu, càng vui, niềm vui lớn, cả gia đình cùng hạnh phúc. Cuộc nhân duyên như thế là thành công.

"Xả" là không phân biệt, kì thị trong tình yêu. Mình yêu ai, hạnh phúc của người ta là của mình, khó khăn của người ta là của mình, khổ đau của người ta là của mình. Không thể nói đây là vấn đề của em/anh, em/anh ráng chịu. Khi yêu, hai người không phải là hai thực thể riêng biệt nữa, hạnh phúc khổ đau không còn là vấn đề cá nhân. Tất cả những gì mình phải làm coi đó là vấn đề của hai người, chuyển hoá nỗi khổ đau, làm lớn thêm hạnh phúc

Trong truyền thống văn hóa ta, thân với tâm là "nhất như", tức là nếu ta không tôn kính thân thể người yêu thì cũng không tôn kính được tâm hồn người ấy. Yêu nhau là giữ gìn cho nhau, kính trọng nhau. Khi sự rẻ rúng xem thường xảy ra thì tình yêu đích thực không còn

Xin chia sẻ thêm về sáu phương pháp để giữ gìn, và chăm sóc tình yêu của Ôn Thái Hòa giảng tại chùa Phước Duyên ngày 22-12-2002.

1. Không lạm dụng thân thể:
Điều này có nghĩa là đến với nhau không lạm dụng thân thể của nhau mà chỉ để giúp nhau. Nếu ta tới với nhau để lạm dụng thân thể của nhau thì chúng ta sẽ thất bại, bởi vì tất cả các cảm giác nào do thân thể đem lại nó rất là hạn chế và những sắc đẹp do thân thể đem lại cũng rất hạn chế. Do đó, nếu ta đi tới với nhau để lạm dụng thân thể của nhau, thì chúng ta rồi cũng phải chia tay nhau. Tại sao như vậy? Bởi vì sắc đẹp nào rồi cũng tàn và cảm giác dục vọng nào, rồi cũng đi qua và để lại cho thân thể một sự trống trải, một sự khao khát tiếp tục. Bởi vậy, trái tim của tình yêu lứa đôi hay khởi lên dông bão và nó cuốn hút, khiến cho mỗi người phải đi mỗi nẻo và hai gia đình quan hệ với nhau rất đẹp trở thành xa lạ và không khéo trở thành hận thù là do người ta tới với nhau vì lạm dụng thân thể của nhau.

Vì sao chúng ta tới với nhau để chăm sóc thân thể cho nhau? Vì ta nhìn sâu vào thân thể của ta, ta sẽ thấy cơ thể này không phải đơn thuần là của ta, thân thể này ta có được là do cha mẹ ta, thân thể này ta có được là do ông bà tổ tiên, nội ngoại của ta, do có cha mẹ ta, có ông bà tổ tiên của ta, nên ta mới có được thân thể này, cho nên ta đi tới với nhau là để chăm sóc thân thể cho nhau và hai người chăm sóc thân thể cho nhau, có nghĩa là chăm sóc trái tim cho cha mẹ ta, ta chăm sóc trái tim cho ông bà nội ngoại, chú bác, cô dì và cho bạn bè của ta. Nếu ta biết được như vậy, thì ta sẽ sống rất hạnh phúc với nhau trong đời sống lứa đôi.

2. Giữ gìn lời nói cho nhau:
Chúng ta tới với nhau để giữ gìn và chăm sóc lời nói cho nhau. Trong tình yêu lứa đôi nếu mình không biết chăm sóc lời nói cho nhau, thì hạnh phúc sẽ đổ vỡ ngay, dông bão sẽ nổi lên ngay và sẽ cuốn hút, đẩy hai người đi hai phương trời xa lạ. Do đó, trong đời sống tình yêu lứa đôi, chúng ta đi tới với nhau là biết chăm sóc lời nói cho nhau. Chúng ta phải nói những lời nói dễ thương, chúng ta phải nói những lời nói khiêm tốn. Chúng ta không bao giờ sử dụng từ ngữ có tính cách tự hào về sở học của mình, về nghề nghiệp của mình để nói với nhau.

Nếu trong tình yêu lứa đôi, ta sử dụng ngôn ngữ mang tính cách tự hào về sở học, nghề nghiệp, về cách tạo ra nhiều tiền của mình, thì rất có thể dông bão sẽ nổi lên và sẽ đẩy hai người về hai phương trời xa lạ.

Lại nữa, trong đời sống lứa đôi phải chăm sóc lời nói cho nhau, không bao giờ nói những từ mang tính tự hào về gia tộc của mình. Nếu mình nói với nhau bằng tự hào về gia tộc của mình, hạnh phúc sẽ tan vỡ và từ đó tình yêu lứa đôi trở thành bão tố giết chết hai người. Bởi vậy, hai người đi tới với nhau phải biết chăm sóc lời nói cho nhau. Nên khi một người nói những lời nói có tính cách không trong sáng, thì người kia phải ngồi im, lắng nghe và sau đó thấy đối phương trở lại trạng thái bình thường, thì mới nói "hồi nảy anh/em nói những lời nói nghe không dễ thương".

Mình chăm sóc lời nói cho nhau như vậy, thì đời sống lứa đôi của mình, tình yêu lứa đôi của mình, trái tim lứa đôi của mình đập theo nhịp đập nhẹ nhàng, an toàn. Nó không đập theo nhịp đập của vội vã hấp tấp, dồn nén. Khi trái tim của ta đập vội vã, hấp tấp, dồn nén, tức giận, thì lưu lượng máu trong cơ thể chúng ta chảy không bình thường, não bộ của chúng ta không còn tỉnh táo và đó là nguy cơ giông bão nổi lên trong đời sống tình yêu lứa đôi, đời sống gia đình. Bởi vậy, muốn bảo toàn trái tim của tình yêu lứa đôi, muốn bảo toàn hơi thở của tình yêu lứa đôi... chúng ta phải giữ gìn lời nói cho nhau.

3. Giữ gìn tâm hồn cho nhau:
Chúng ta phải biết giữ gìn tâm hồn cho nhau. Chúng ta tới với nhau bằng tâm hồn, chúng ta phải biết giữ gìn tâm hồn đẹp cho nhau. Ta biết tâm hồn đẹp của người là có mặt trong tâm hồn đẹp của ta và tâm hồn đẹp của ta lại có mặt trong tâm hồn đẹp của người. Chúng ta phải biết giữ gìn và duy trì tâm hồn đẹp ấy cho nhau và ta hãy đem tâm hồn đẹp đó mà hiến tặng cho nhau.

Tâm hồn của chúng ta cũng có những chất liệu của ích kỷ. Trong tình yêu lứa đôi nó hay tiết ra chất liệu này. Tình yêu lứa đôi hay tiết ra chất liệu ích kỷ, chất liệu ghen tuông. Nếu mình không đủ thông minh để giữ gìn cho nhau thì chất liệu ghen tuông đó sẽ đi ra trong cách nói của mình, trong cách xử lý của mình và dông bão sẽ khởi lên và nó đẩy tình yêu của chúng ta đi vào khung trời tối tăm và thất bại. Trái lại, trong tâm chúng ta có những chất liệu rất tốt, đó là chất liệu khiêm tốn, chất liệu xả kỷ, chất liệu hiếu kính, chất liệu chân thực, chất liệu bao dung. Chúng ta phải biết chăm sóc tâm hồn cho nhau bằng cách làm cho những chất liệu tốt đẹp đó có mặt thường trực trong tâm hồn của chúng ta. Nếu chúng ta biết chăm sóc tâm hồn cho nhau thì tin chắc rằng chúng ta sẽ vô cùng hạnh phúc, không phải hạnh phúc theo kiểu đời thường, mà mình còn có hạnh phúc theo cách nhìn và cách cảm nhận của bậc Thánh trong tình cảm lứa đôi, trong tình yêu lứa đôi.

4. Chăm sóc quyền lợi cho nhau:
Ta phải biết chăm sóc quyền lợi cho nhau. Quyền lợi cho nhau ở đây là người chồng phải biết chăm sóc quyền lợi cho người vợ và người vợ phải biết chăm sóc quyền lợi cho người chồng và người chồng phải biết chia sẻ quyền lợi làm chồng cho người vợ, và người vợ phải biết chia sẻ quyền lợi làm vợ cho người chồng. Còn nếu người chồng chỉ biết hưởng thụ quyền lợi làm chồng, thì tức khắc người vợ bị đàn áp và người vợ chỉ biết hưởng quyền lợi làm vợ, thì tức khắc người chồng sẽ bị đàn áp, và người vợ sẽ lấn lướt người chồng. Và khi sống trong một gia đình mà người chồng có cảm giác mình bị vợ đàn áp hoặc là người vợ có cảm giác mình bị người chồng đàn áp, thì hạnh phúc giữa hai người không thể nào có mặt.

Bởi vậy, chất liệu thứ tư là chúng ta phải biết chăm sóc quyền lợi cho nhau, từ quyền lợi bản thân đến quyền lợi gia đình; từ quyền lợi gia đình đến quyền lợi dòng họ; từ quyền lợi dòng họ đến quyền lợi xã hội... chúng ta phải biết chăm sóc cho nhau. Cho nên, ta phải biết xem quyền lợi bên nhà vợ cũng giống như quyền lợi bên nhà chồng và quyền lợi bên nhà chồng thì phải xem như quyền lợi bên nhà vợ, cho đến quyền lợi xã hội cũng phải biết và đối xử như vậy.

Người chồng có được quyền lợi và vị trí trong xã hội, thì phải biết trong quyền lợi và vị trí ấy, cũng đang có mặt của vợ mình. Người chồng phải ý thức rằng, nếu không có vợ mình chăm sóc con cái, chăm sóc gia đình và yểm trợ nhiều mặt cho mình, thì làm sao mà mình có vị trí và những quyền lợi này, nên những gì mình có được đều là có sự đóng góp của vợ, và đều có mặt của vợ mình ở trong đó, vì vậy quyền lợi của mình là quyền lợi của vợ, vị trí của mình là vị trí của vợ. Người chồng phải ý thức rõ như vậy, mới có thể cùng với vợ xây dựng hạnh phúc.

Có nhiều người chồng đi làm được nhiều tiền về hạch sách vợ và coi vợ rất là rẻ. Vợ chưa nấu cơm, chưa giặt áo quần, chưa dọn dẹp là bắt đầu quát nạt lên và như vậy tạo nên sự đau khổ cho nhau. Hoặc là có những người vợ rất ỷ lại về công việc của mình, xem chồng không ra gì, nói "cái gì cũng em làm hết, anh không có làm cái gì cả, anh chỉ được cái đi ra ngoài thôi, còn việc nhà anh không hay biết gì hết", người vợ nói với chồng như vậy, thì làm sao vợ chồng sống với nhau có hạnh phúc được. Nếu bà vợ ỷ lại công việc hằng ngày của mình như vậy, thì nhất định hạnh phúc lứa đôi giữa hai người không có gì bảo chứng cả.

Và khi đi ra giữa dòng họ cũng vậy. Người chồng đóng vai trò gì trong dòng họ, kỵ giỗ bên nội, bên ngoại của chồng, thì người vợ phải hết lòng hỗ trợ và người vợ có việc gì bên ngoại, bên nội của vợ, người chồng cũng phải hết lòng hỗ trợ, xem đó như là quyền lợi và trách nhiệm của mình, mình có trách nhiệm và quyền lợi ở trong đó, thì khi đó, mình mới có hạnh phúc trong lứa đôi. Còn nếu quyền lợi và trách nhiệm của vợ, chỉ là quyền lợi và trách nhiệm của vợ và quyền lợi, trách nhiệm của chồng chỉ là quyền lợi và trách nhiệm của chồng, thì hai trái tim đó tuy cùng nhau ở chung trong một gia đình và cùng nhau nằm ngủ chung một giường cũng thành ra băng giá và đời sống vợ chồng liền trở thành vô nghĩa. Và nếu nó không trở thành băng giá và vô nghĩa, thì hai trái tim đó cũng sẽ bốc lửa khiến cho ngôi nhà của tình yêu lứa đôi ấy bị cháy rụi.

Bởi vậy, trong tình yêu lứa đôi, chúng ta phải biết chăm sóc quyền lợi cho nhau.

5. Chăm sóc sự hiểu biết cho nhau:
Trong tình yêu lứa đôi, ta phải biết chăm sóc sự hiểu biết cho nhau. Bởi vì, một người hiểu biết sống gần với một người không hiểu biết, thì không thể hạnh phúc được. Và một người hiểu biết này sống với một người hiểu biết kia, nhưng giữa hai người không đồng quan điểm với nhau cũng không thể nào tạo ra hạnh phúc được. Một người hiểu biết theo kiểu Tây, một người hiểu biết theo kiểu Đông, một người hiểu biết theo kiểu miền Thượng, một người hiểu biết theo vùng Duyên Hải, đem sự hiểu biết đó cọ xát với nhau thì hạnh phúc lứa đôi bốc cháy ngay.

Hoặc đem hai sự hiểu biết đó mà chung sống nếu không bốc cháy, thì cũng trở thành băng giá trong gia đình. Cho nên, trong tình yêu lứa đôi ta phải biết chăm sóc và chia sẻ sự hiểu biết cho nhau. Người này có hiểu biết thì chia sẻ cho người kia và ngược lại. Có những trường hợp chồng phải tạo điều kiện cho vợ được hiểu biết, nghĩa là chồng phải biết tạo điều kiện cho vợ được học hỏi và vợ cũng phải biết tạo điều kiện cho chồng được học tập, và vợ chồng học tập được cái gì thì phải biết chia sẻ cho nhau.

Chất liệu chăm sóc sự hiểu biết cho nhau sẽ tạo ra hạnh phúc trong đời sống lứa đôi.

6. Biết giữ gìn môi trường cho nhau:
Trong tình yêu lứa đôi, ta phải biết giữ gìn môi trường sống cho nhau. Môi trường sống của tình yêu lứa đôi là ông gia, bà gia của hai phía, anh chị em, ông bà nội ngoại, cô dì chú bác, cậu mợ của hai phía, bạn bè của hai phía và sự quan hệ xã hội của hai pha trong tình yêu lứa đôi chúng ta phải biết giữ gìn môi trường sống đó cho nhau.

Chúng ta nặng cái này, chúng ta nhẹ cái kia thì giông bão sẽ xảy đến ngay. Sở dĩ, không gian có những trận dông bão dữ dội là do áp suất không khí đột biến, thay đổi bất ngờ. Trong đời sống con người cũng vậy, trong tình cảm... chúng ta phải giữ cho nó được cân bằng. Chúng ta không giữ được cân bằng thì dông bão trong lãnh vực tình cảm sẽ nổi lên. Thà dông bão xảy ra giữa đất trời ta còn có nhà để trú ngụ, còn có hang để ẩn nấp, nhưng dông bão trong trái tim tình yêu của mỗi người nổi lên, thì chỉ có tan rã hình hài, tan rã cuộc sống, không còn bất cứ chỗ nào an toàn nữa để trú ngụ.


Vườn hoa Phật giáo
 

PhuongChau

Diễn đàn XNC
#43
Buông xả đi...

An lạc, và hạnh phúc là điểm mơ của cuộc đời mà con người ai cũng mong mỏi để đạt tới. Những nhà xã hội, chính trị, tôn giáo... tất cả mọi cố gắng của họ cũng không ngoài mục đích mang lại sự bình an, và hạnh phúc cho cuộc đời.


Ảnh minh họa -Nguồn: Internet

Sự miệt mài trong các trường đại học, hoặc phải làm hai, hay ba việc trong một tuần của bạn cũng không ngoài ý muốn trên.

Tất cả mọi cố gắng của bạn để làm sao mình có được danh phận, và đồng tiền. Vì hai sự kiện này rất cần thiết trong một đời sống có an lạc, và hạnh phúc. Những cao sang vật chất đóng phần rất quan trọng cho một đời sống ổn định. Để từ đó, bạn cảm thấy mình bớt âu lo, và sợ hãi hơn. Do vậy, bạn cần phải kiên trì học hành, vươn lên trong cuộc sống, và nỗ lực làm việc. Mọi suy nghĩ tiêu cực và oán ghét cuộc đời thường dễ đưa bạn đến sự hủy diệt sự sống, và chẳng giúp gì nhiều cho bạn có được một tâm hồn an lạc, và hạnh phúc.

Bạn đang chăm chỉ học hành, và làm việc. Đời sống bạn tạm ổn về mặt kinh tế, nhưng bạn vẫn thường thấy mình có nhiều khổ đau, và phiền muộn. Đành rằng vật chất, bằng cấp, kiến thức, và danh phận đã giúp bạn có thật nhiều hạnh phúc nhưng có nhiều thứ khác bạn thiếu lưu ý đã tạo những phiền muộn cho bạn không ít.

Như một căn nhà cao sang, bạn trang trí nhiều bức tranh đẹp, và những tiện nghi nhưng cùng một lúc bạn lại mang vào nhiều rác rến, và gai gốc. Chính những gai gốc này đã làm cho bạn mất đi thật nhiều sự trang nhã ,và cao sang của căn nhà. Nếu bạn biết học hỏi, và thận trọng hơn để ngăn ngừa những phiền muộn có thể xảy ra bất cứ lúc nào chung quanh bạn như rác rến kia thì quả thật bạn là người sung sướng nhất thế gian này.

Có bao giờ bạn tự suy nghĩ đến những sự việc nào mà nó làm tiêu hủy an lạc, và hạnh phúc mà bạn đang vun xới không? Ngoài những điều trên bạn đang miệt mài, còn cách nào bạn có thể xây dựng một đời sống với nhiều an lạc, và hạnh phúc? Đây là hai câu hỏi thật là quan trọng giúp cho bạn thực hiện một đời sống bình an, và ý nghĩa.

Có nhiều lý do từ bên ngoài và bên trong tâm hồn, đã tạo cho bạn khổ đau không ít. Chẳng hạn, bạn phải sống với một người mà bạn không thích. Bạn phải nghe những điều mà bạn thật sự không muốn nghe. Bạn bị vu oan một cách cay nghiệt. Bạn giận giữ một ai lâu ngày trong lòng. Bạn ray rứt, ăn năn một lầm lẫn. Bạn ích kỷ, và rất thờ ơ trước sự đau khổ của người khác... Tất cả những sự việc này như là những ngọn lửa cao hực cháy trong lòng bạn.

Vậy thì làm sao mà bạn có được an lạc, và hạnh phúc cho dù bạn đang có thừa đời sống vật chất. Những thứ này không khác gì những con vi trùng ung thư đang tiêu hủy những hồng cầu của bạn. Bạn phải tìm thấy những nguyên nhân đưa đến sự phiền muộn một cách thường trực, thì bạn mới có thể chuyển đổi được sự khổ đau. Cũng từ đó, bạn mới tìm ra phương pháp nào để đối trị nó được. Bạn muốn thật sự có an lạc, và hạnh phúc trong cuộc sống, thực hành pháp buông xả là một bí quyết giúp bạn có nhiều niềm vui cho chính bạn, và những người chung quanh.

Hạnh buông xả là gì?
Buông xả là buông bỏ. Bạn buông bỏ mọi phiền muộn từ bên ngoài và chính bên trong tâm bạn. Bạn buông bỏ sự ích kỷ, và nhỏ mọn. Bạn rủ bỏ nó như rủ bỏ một chiếc áo rách, và nhớp nhúa lâu ngày. Tất cả chúng là những mùi tanh đang bám vào người bạn. Bạn phải chiêm nghiệm chúng một cách sáng suốt và thẳng thắn xác định rằng, phiền muộn là khí độc đang bao trùm lấy bạn, bạn phải dứt khoát buông bỏ.

Buông bỏ được, thì an lạc đến. Bạn lưu ý cho rằng khổ đau và an lạc là hai mặt trái, và phải của một bàn tay. Chúng luôn luôn đi theo dạng tỷ lệ nghịch với nhau. Khi bạn có nhiều an lạc thì khổ đau ít xuất hiện và ngược lại. Như một ly nước, nếu bạn cho nhiều màu xanh thì màu trắng mất. Làm thế nào bạn có thể tập hạnh buông xả trong đời sống hàng ngày.

1. Hãy tập buông xả với chính bạn trước:
Ta là nơi nương tựa của chính ta. Đức Phật thường hay khuyên chúng ta như vậy. Bạn phải trở về chiêm nghiệm, và thực tập nơi chính con người bạn. Chính bạn đã tạo cho bạn phiền muộn không ít. Bạn phải tập buông bỏ những khổ đau trong tâm hồn do chính bạn gây ra. Bạn thực tập hạnh buông xả tức là bạn đang thực tập hạnh từ bi, thương yêu. Bạn phải ý thức một cách sáng suốt rằng chính bản thân bạn cũng là một sinh mạng như bao nhiêu sinh mạng khác. Hãy tập thương yêu ngay từ chính bạn. Hãy tập thương yêu để buông xả, trong ấy những vấn đề mà bạn thường gây ra như sau:

a. Sự ân hận dai dẳng:
Trong những sinh hoạt thường ngày, bạn thường làm những điều phiền muộn đến những người chung quanh một cách vô tình hay cố ý. Nhưng sau đó bạn cảm thấy ăn hận vô cùng. Nhận biết lầm lỗi chính mình là cửa ngõ đầu tiên cho mọi thánh thiện trong cuộc sống. Không biết mình làm điều sai thì làm sao có thể sửa đổi được.

Hành động sám hối của bạn chỉ có thể xảy ra khi nào bạn thật sự đón nhận lầm lỗi của mình một cách tha thiết. Nhưng sau khi ăn năn xong thì bạn cần phải buông xả ý niệm ray rứt triền miên trong thời gian qua đó. Vì, nếu bạn cứ tiếp tục ôm giữ sự ân hận ấy thì chẳng mang lại cho bạn một chút an lạc nào cả. Như một chiếc áo đã giặt sạch, bạn không nên vô tình giày vò nó để tạo nên những nhàu nát đáng tiếc.

Bạn lưu ý cho rằng, buông xả tâm lý ân hận dai dẳng không có nghĩa là đồng lõa với mọi sự dễ dãi. Bạn phải thật thận trọng để quan sát những hoạt động của tâm lý bạn trong chiều hướng này. Một khi ý niệm dễ dãi để cho một lầm lỗi trôi qua thì bạn không thật sự có nhiều ân hận. Đã không có nhiều ân hận thì làm gì có sự buông xả.

Đây là một sự dễ dãi, và bạn lại khởi đầu cho một ác nghiệp mới chồng lên ác nghiệp cũ. Như làm cho một người khác đau khổ vì lời nói thiếu từ tâm của bạn. Bạn biết nó sai, và bạn hời hợt dễ dãi bảo rằng, thôi thì hãy quên chuyện ấy đi. Buông xả sự ân hận dai dẳng ở đây không nằm trong ý đó. Vì rằng, bạn không có chút mảy may gì ray rứt việc lầm lỗi của bạn. Hai tiếng buông xả chỉ được phát xuất bằng tất cả lòng tha thiết thành khẩn, và ăn năn chính bạn.

Một đêm thật khuya, sau khi hoàn tất mọi công việc đèn sách hoặc những chuyện khác, bạn ngồi yên lặng trên giường hay nơi phòng khách với tư thế trang nghiêm, nếu được bức tranh đức Phật thì tốt. Thế giới lúc này thật tĩnh lặng, và chỉ còn lại bạn và đức Phật thôi. Bạn trình bày với Phật về sự việc lầm lẫn của bạn và nó đã mang lại cho bạn thật nhiều ân hận, và khổ đau trong tâm hồn. Bạn thành khẩn sám hối.

Bạn tha thiết đọc câu thần chú Án Ma Ni Bát Di Hồng, hay niệm bất cứ một danh hiệu Phật nào để cầu xin Phật lực làm tiêu trừ tội lỗi của bạn vừa qua. Nếu bạn thật sự ăn năn thì nước mắt bạn sẽ dâng trào hoặc một cảm giác lành mạnh chạy khắp trên thân hình của bạn. Bạn cúi đầu đảnh lễ đức Thế Tôn, và cũng chính trong lúc ấy bạn quyết liệt rủ bỏ tâm lý ân hận đã bám chặt trong lòng bạn trong suốt thời gian qua. Sự an lạc, và hạnh phúc đang đến với bạn.

b. Buông xả lòng ích kỷ:
Sự ích kỷ sẽ làm cho tâm hồn bạn nghèo nàn, và cô lập với thế giới chung quanh. Chia xẻ sự khổ đau của những người chung quanh sẽ giúp cho đời bạn có nhiều niềm vui hơn, và được nhiều người kính trọng hơn. Khó có ai mà ghét bạn một khi bạn tỏ ra rất cảm thông với họ. Như trong trường học, bạn cảm thấy dễ chịu hơn khi một thầy giáo thông cảm được bạn là người Á châu, và ngôn ngữ bạn không phải là tiếng Mỹ. Bạn học cởi mở cõi lòng bạn. Sống vì người khác, và cho người khác cũng có nghĩa là sống cho chính mình.

Phật Thích Ca vì thương yêu mọi người, Ngài đi truyền đạo từ thôn quê đến phố thị suốt năm mươi năm dưới nắng trời của xứ Ấn Độ. Thánh Gandhi dù bị hạ sát, nhưng ông chắc rất an vui trong sự nghiệp hy sinh cho đất nước của ông. Người Mỹ càng ngày càng tham gia vào các công tác xã hội từ thiện. Việc làm ấy đã làm cho cuộc sống của họ có ý nghĩa hơn. Năm 93, chỉ trong một đêm quyên góp thôi mà tổ chức cứu giúp các em bé tật nguyền ở Mỹ đã quyên hơn năm trăm triệu Mỹ kim. Muốn buông xả lòng ích kỷ, bạn cần phải tập sống đời hy sinh, và thương yêu.

c. Buông xả sự nóng giận:
Nóng giận là điều mà con người ai cũng đầy ắp cả. Cả nhà tâm lý học xã hội học Mead, và phân tâm học Freud nghĩ rằng sự nóng giận của con người là do học lấy từ hoàn cảnh chung quanh mà phát triển. Điều ấy không hoàn toàn đúng lắm. Vì một đứa bé sinh ra vài ngày, chúng ta vẫn thấy nó có dấu hiệu nóng giận rồi. Sự nóng giận đã theo ta từ nhiều đời nhiều kiếp, chứ không phải mới ngày hôm nay.

Nóng giận đã làm sụp đổ đến sự liên hệ giữa các quốc gia, tổ chức, bạn bè, gia đình, và ngay cả trong tình yêu nữa. Bạn có nhiều nóng giận tức bạn gây nhiều oán thù, và chắc chắn bạn sẽ có nhiều khổ đau. Sự nóng giận của cựu Tổng Thống Bush trước thân nhân của những chiến binh mất tích tại Việt Nam đã làm giảm thiện cảm rất nhiều quần chúng Mỹ đối với ông. Sự nóng giận khởi lên thì bạn khó có thể kiềm chế được những lời nói hòa nhã, và bạo hành thường xảy ra.

Mỗi khi bạn biết mình sắp nóng giận bạn lập đi lập lại câu “tôi đang nóng giận” và bạn hít thật sâu vào trước khi thở ra. Và đó là một trong những cách bạn thực tập buông xả nóng giận trong lúc nóng giận. Bạn vẫn có thể thực tập nó trong những lúc mình không nóng giận. Như khi dùng bữa ăn chiều không vừa ý, bạn hỏi lòng bạn có bực dọc nhiều lắm không. Khi người yêu của bạn trễ hẹn vào chiều thứ sáu cuối tuần, trong lúc đang chờ đợi, bạn tập hỏi tôi có giận nhiều không. Mỗi sự lập lại như vậy của bạn là giúp bạn khả năng quán sát và kiểm soát tâm mình. Nó sẽ tạo một năng lực làm suy yếu sự bộc phát của nóng giận một khi bạn gặp việc. Khả năng rủ bỏ sự nóng giận, không mang lại một hạnh phúc, và thanh cao tuyệt vời trong đời sống bạn lắm sao.

d. Buông xả sự kiêu ngạo:
Sự kiêu ngạo sẽ làm cho mọi người ghét bạn, và xa lánh bạn. Nó không giúp ích một chút nào trong đời sống an lạc, và hạnh phúc của bạn. Decarte bảo rằng, trong một phiên họp có nhiều thành phần trí thức khác nhau, và mỗi người phát biểu mỗi kiểu, không có nghĩa là người này hơn người kia mà là mỗi người hướng dẫn một ý thức khác nhau. Trong cộng đồng xã hội, mỗi người có một trách nhiệm, và đóng góp riêng cho sự tồn vinh của nó.

Ý nghĩ độc tôn là một ý nghĩ rất ngây thơ, và khờ khạo. “Tôi gặp bất cứ người nào họ cũng hơn tôi mặt này hay mặt khác,” đây là một câu nói đầy từ ái của danh nhân phương tây mà bạn cần phải suy gẫm. Một nhà tu khó có thể xuất sắc về chính trị, và ngược lại nhà chính trị đâu thể nào am tường một đời sống nội tâm và triết lý tôn giáo. Ai hơn ai. Sự kiêu ngạo phát xuất từ sự miệt thị người khác. Đời người thì ngắn ngủi, kiến thức chúng ta thật là hạn chế, tài năng cũng chỉ rất giới hạn trong một lãnh vực nào đó thôi. Chúng ta rất dốt nhiều thứ. Vậy thì có đáng kiêu ngạo để gây thương đau cho chính ta, và những người chung quanh ta.

2. Buông xả phiền muộn từ người khác mang đến:
Trên kia là bạn học buông xả những điều bất an do chính bạn gây ra. Không chỉ vậy, bạn cũng cần sự buông xả những phiền muộn từ người khác mang đến cho bạn. Nếu bạn đã tập tha thứ cho chính mình thì bạn cũng dễ dàng tha thứ cho người khác. Điều này không khó lắm đâu. Người khác mang đến cho bạn phiền muộn, nếu bạn khôn ngoan, bạn không nắm lấy nó lâu, và nó sẽ đi qua rất lẹ. Ngược lại, sự bất an và phiền muộn càng lúc càng gia tăng thêm. Một kẻ không nhà lang thang trên đường phố bỗng dưng mắng nhiếc bạn vào một sáng thứ bảy trong shopping. Bạn căm hờn ông ta. Bạn tìm cách trả thù. Nếu bạn không bận tâm lời của một kẻ khốn mạt như thế thì bạn thấy lòng mình thư thái hơn.

Trong đời sống gia đình, giữa cha mẹ, anh chị em, bạn thường gặp nhiều xung đột phiền toái. Bạn cứ giữ mãi trong lòng từng lời nói, từng cử chỉ, từng hành động mà người khác làm phật lòng bạn. Thân bạn nhỏ quá mà bạn muốn vác nhiều hòn đá phiền muộn như vậy thì làm sao bạn có thể sống được. Hơn nữa, bạn thấy chung quanh bạn toàn là kẻ thù không thôi mặc dù họ là những người rất thân yêu bạn.

Điều ấy làm tiêu hủy một hoàn cảnh đẹp, và thiêng liêng nhất trong đời bạn. Đức Phật khuyên bạn, mọi phiền muộn người khác mang đến bạn, như họ mang đến cho bạn một món quà, nếu bạn không nhận lấy thì gói quà ấy ắt về họ. Hãy trả lại mọi bất an cho những ai đã mang đến bạn. Lòng bạn sẽ trong vắt và thơ mộng như bầu trời xanh.

Tóm lại, bạn đang ao ước có được một đời sống thật an lạc, và hạnh phúc. Bạn đang nỗ lực ở trường, và ở sở. Bạn đang tập tha thứ chính mình. Bạn đang mở lòng để chia xẻ sự sống với những người chung quanh. Bạn buông xả mọi chuyện không vừa lòng mà người khác mang lại cho bạn. Bạn đang thật sự có an lạc, và hạnh phúc.


Vườn hoa Phật giáo
 

PhuongChau

Diễn đàn XNC
#44
Hãy trân trọng người bạn đang thương yêu

Đầu tiên, xin chúc mừng bạn, vì bạn đang yêu, đang có một đối tượng để cùng họ vun vén hạnh phúc trong đời sống ngắn ngủi này. Còn có một tình yêu, còn có một người để mình quan tâm, vì họ mà mình sống thiệt tốt, và cảm thấy cần phải sống tốt giữa cuộc đời là một hạnh phúc mà bạn cần trân trọng.


Ảnh minh họa -Nguồn: Internet

Thực sự, để thương một người cho "tới nơi tới chốn" của chữ thương (yêu) không hề dễ chút nào. Vì thế mà từ cổ chí kim, người ta vẫn ca cẩm về tình yêu, bảo đó là thứ tình cảm khiến con người khổ sở, nhưng rồi, ai cũng khó vượt qua "lưới tình", bởi ai cũng "thà chịu khổ chớ không chịu lỗ".

Khổ suy cho cùng cũng là một... kiểu lỗ khác, bởi ta đã "đầu tư" sự bình yên của mình vào cuộc tình, để rồi nhận lại một sự không bình yên (quá lớn), đôi khi dai dẳng cả một đời, thậm chí nhiều đời.

Ta luôn là người "đầu tư" kém cỏi bởi vì ta chưa hiểu được tình yêu, ta để cho sức hút của ham muốn, ghen tuông chi phối, làm chủ hành động, và ngộ nhận về chữ "yêu" vốn đẹp ấy, rồi vội nghĩ, vội thốt ra, vội làm những việc nhân danh tình yêu - đưa đến kết quả không như ta mong muốn và nghĩ ngợi ban đầu.

Thực ra, khi yêu, ai cũng mong sẽ mang lại hạnh phúc cho người mình thương, và cũng từng vô cùng hạnh phúc khi thấy người thương mình vui vẻ, hạnh phúc - nhưng tháng ngày trôi qua, vì những thói quen sai lầm tiềm ẩn trong ta đã "đưa lối dẫn đường" - khiến ta nghĩ, nói, làm những việc thật là nông nổi, đến khi ngộ ra rồi ta mới thấy mọi thứ quá muộn màng.

Khi đó, có thể người thương của ta không còn nữa, có thể tình cảm của cả hai đã không còn vẹn nguyên như thuở ban đầu và tệ hại hơn, ta và người đã trở mặt thành oán thù nhau.

Chính vì "nguy cơ" quá lớn của tình yêu nên những người chọn con đường hạnh phúc dài lâu sẽ không chọn tình cảm này làm lẽ sống. Theo đó, người xuất gia học đạo (dù là tôn giáo nào) cũng đều "sống một mình" và luôn an bình với lựa chọn ấy, không mảy may tơ tưởng tình xưa, càng không ham hố thiết lập mối quan hệ tình cảm mới.

Thực ra, ngay khi vị xuất sĩ chọn tình yêu, và bị tình yêu lứa đôi làm chủ thì vị ấy liền dính mắc, dù mang thân xuất gia nhưng không khác gì người tại gia. Tôi nói với bạn điều này vì có lần bạn hỏi, người xuất gia có tình yêu đôi lứa không?

Trở lại việc "bạn đang yêu" - đó là một sự thật đang là - nên bạn cần sống với sự thật đó một cách tốt nhất. Bạn không thể "đứng núi này trông núi nọ" theo nghĩa vừa muốn làm vị xuất sĩ, vừa muốn có tình yêu như người thế gian; và còn theo nghĩa, vừa yêu người này nhưng đồng thời cũng lén phén thương một người khác.

Hãy trân trọng tình cảm mình đang có, và với người đang cùng bạn đi qua những khúc quanh của cuộc đời. Vì, như ai đó nói, trên bước đường bạn, và người ấy đi, bạn sẽ gặp vô số những người dễ thương hơn người đang đồng hành, thế thì, không lẽ bạn cứ thay đổi hoài người thương, rồi để xúc cảm yêu đương cứ mải bềnh bồng kiểu đó?

Hạnh phúc là sự an trú, nhận diện sự thật để sống tốt nhất với sự thật đó. Đừng như chú chó trong câu chuyện nhà thiền, vì loay hoay không biết chọn hướng nào làm bờ để cập bến thì sẽ phải chết chìm giữa dòng sông. Chúc bạn luôn bình an trong lựa chọn của mình, dù là yêu đương, lập gia đình hay làm người xuất sĩ. Và khi đã lựa chọn yêu thì phải yêu cho có chất liệu của một người học Phật, làm được vậy thì bạn cũng đang thuyết pháp, đang làm một hoằng pháp viên, để người ta nhìn vào và thấy, người con Phật yêu trong sự hiểu biết chơn chánh, biết tôn trọng nhau, tôn trọng chính mình vì đã quá hiểu nhơn-duyên-quả rồi!


Vườn hoa Phật giáo
 

PhuongChau

Diễn đàn XNC
#45
Mỗi vết thương là một sự trưởng thành

Mỗi vết thương nếu ta biết trân quý, thì là một cơ hội để ta trưởng thành, mỗi nỗi đau là nấc thang để bước lên cung bậc an nhiên, và mỗi khắc nghiệt nào đó đều có thể là kho tàng cho ta đi tìm sự vô úy.


Ảnh minh họa -Nguồn: Internet

Trong kinh Tăng Chi Bộ, Phần vết thương làm mủ, Phật dạy: "Có người phẫn nộ, nhiều hiềm hận, dầu có bị nói chút ít, cũng tức tối phẫn nộ, sân hận, sừng sộ, sân hận, và bực tức. Ví như một vết thương đang làm mủ, nếu bị cây gậy, hay một miếng sành đánh phải, liền chảy mủ nhiều hơn". Tâm ta dễ bị tổn thương như vết thương đang làm mủ, sẽ đau đớn hơn nhiều lần nếu bị tác động vào vết thương ấy.

Cuộc sống với muôn hình vạn trạng đã cho ta nhiều thất bại, nếu không có chất liệu vững chãi, và chịu đựng thì có lẽ chúng ta miệt mài với những niềm đau. Dấu một hủ mắm hoặc trái sầu riêng trong nhà thì thế nào cũng bốc mùi, dòng sông trôi chảy nước sẽ sạch nhưng bị tác động chặn lại không lưu thông lâu ngày thì nước sẽ vẩn đục. Ta dồn nén những tổn thương trách móc thì từng ngày dằn vặt, và mòn mỏi thân tâm.

Trong tâm ôm ấp ý niệm tiêu cực lâu dài sẽ bị những khối u trong tâm, gọi là ung thư tâm thức. Nên tìm cho mình những phương pháp để khai thông những phần bế tắc trong tâm thức, để những khối u ấy được xoa dịu, và chữa lành.Để làm một hạt ngọc trai, người ta lấy con dao thật sắc nhọn mổ bụng con trai ra bỏ vào một hạt cát và may lại, rồi bỏ nó vào hồ chứa nước biển. Sẽ có hai điều xảy ra đối với con trai khi có hạt cát trong bụng; một là nó sẽ chết dần mòn bởi vết thương làm độc, hai là qua những tháng ngày đau đớn nó sẽ tiết ra chất nhờn bao bọc lại hạt cát nằm trong da thịt. Và hạt ngọc trai được hình thành như thế.

Cuộc đời nhiễu nhương đã cho ta những hạt cát sầu khổ. Nếu ta yếu đuối mỏng manh thì sẽ than vãn, và gục ngã như con trai chết vì độc tố, nhưng ngay trong hoàn cảnh khắc nghiệt mà ta mạnh mẽ vượt qua để chế tác ra chất liệu tỉnh thức, và yêu thương thì ngày đó ta đã trưởng thành hơn từ vết thương mà đời đã gởi đến.

Vết thương ngoài da có ngày lành thương tích, nhưng có những vết thương lòng trải qua thời gian lâu dài mới chữa lành, đôi lúc có những vết thương lòng đã theo ta đến ngày nhắm mắt xuôi tay mà chưa được chữa trị. Mỗi người có những vết thương lòng khác nhau, và đa phần những hệ quả để lại là sự đau khổ, mất niềm tin, tuyệt vọng, cô đơn, và hờn giận. Có vết thương đến từ hệ lụy tình cảm, người khác phản bội, xúc phạm danh dự, lừa dối tiền bạc... Nếu không khéo thực tập thì những nỗi đau sẽ kéo dài trong tâm thức, và từng ngày giết chết người bị tổn thương.

Trong kinh Tăng Chi Bộ, Phần vết thương làm mủ, Phật dạy: "Có người phẫn nộ, nhiều hiềm hận, dầu có bị nói chút ít, cũng tức tối phẫn nộ, sân hận, sừng sộ, sân hận, và bực tức. Ví như một vết thương đang làm mủ, nếu bị cây gậy hay một miếng sành đánh phải, liền chảy mủ nhiều hơn". Tâm ta dễ bị tổn thương như vết thương đang làm mủ, sẽ đau đớn hơn nhiều lần nếu bị tác động vào vết thương ấy. Cuộc sống với muôn hình vạn trạng đã cho ta nhiều thất bại, nếu không có chất liệu vững chãi, và chịu đựng thì có lẽ chúng ta miệt mài với những niềm đau. Dấu một hủ mắm, hoặc trái sầu riêng trong nhà thì thế nào cũng bốc mùi, dòng sông trôi chảy nước sẽ sạch nhưng bị tác động chặn lại không lưu thông lâu ngày thì nước sẽ vẩn đục. Ta dồn nén những tổn thương trách móc thì từng ngày dằn vặt, và mòn mỏi thân tâm. Trong tâm ôm ấp ý niệm tiêu cực lâu dài sẽ bị những khối u trong tâm, gọi là ung thư tâm thức. Nên tìm cho mình những phương pháp để khai thông những phần bế tắc trong tâm thức, để những khối u ấy được xoa dịu, và chữa lành.

Ta cũng không thể trốn đi đâu để xa lánh những nghiệt ngã, vậy thì ngày đây, từ nơi ta vấp ngã, từ nơi những nổi đau, và từ nơi mỗi vết thương ta hãy tìm ra con đường chuyển hóa để từ đó khổ đau là điều kiện hạnh phúc, vấp ngã là cơ hội vững chãi, vết thương là nhân duyên trưởng thành. Cho nên Ngài Vĩnh Gia đã nói rằng "Xét lời ác ấy là công đức, đó mới chính là thầy ta thực".

Để tạo được trầm hương hay kỳ nam thì cây dó chịu sự tác động từ thiên nhiên như sấm sét, côn trùng xâm hại, đất lở, bão giông, các vết thương bị nhiễm khuẩn, và loại vi khuẩn này kết hợp với chất nhựa của cây dó tạo thành phản ứng hóa học và hình thành trầm hương. Nhưng không phải cây dó nào bị thương cũng biến thành trầm, hàng nghìn hàng triệu cây mới có một cây; còn tùy thuộc vào loài cây dó, thổ nhưỡng, thảm thực vật nơi cây dó sống, vi khuẩn nấm mốc, hoặc nhiễm các loài ký sinh nào, và đặc biệt là năng lực tạo ra phản ứng miễn dịch của cây dó đó. Nhân gian truyền miệng nhau câu nói "Trong đau thương dó biến thành trầm" hay câu ca dao "Dó lâu năm mới thành kỳ, đá kia lăn lóc có khi thành vàng", như vậy ta có thể hiểu trầm kỳ là sản phẩm của quá trình nhiễm bệnh, hoặc quá trình phản ứng tự vệ chống lại quá trình nhiễm bệnh của cây dó.

Cuộc đời cũng đã cho ta nhiều vết thương, ta sẽ nâng niu những vết thương ấy để tâm linh được nở hoa trưởng thành, hay sẽ chết đi theo thời gian như hàng nghìn hàng triệu cây dó khác. Mỗi vết thương nếu ta biết trân quý thì là một cơ hội để ta trưởng thành, mỗi nỗi đau là nấc thang để bước lên cung bậc an nhiên, và mỗi khắc nghiệt nào đó đều có thể là kho tàng cho ta đi tìm sự vô úy.

Đừng chạy trốn và xa lánh những vụng về, ngay bây giờ và ở đây, ta có thể bắt đầu với sự hồi sinh mạnh mẽ, và tái sinh lại một lần nữa. Đừng để những trái ngang dòng đời vùi dập ta chết đi như con trai nhiễm độc hay những cây dó lụi tàn, hãy là trầm hương, là hạt ngọc trai, tái sinh từ những gì khắc nghiệt nhất.

Mỗi vết thương là một sự trưởng thành.


Vườn hoa Phật giáo
 

PhuongChau

Diễn đàn XNC
#46
Học buông xả

Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như trên con đường giải thoát của chúng ta. Cuộc sống hằng ngày tạo cho chúng ta nhiều cơ hội để buông xả các kế hoạch, các sự mong muốn, các sở thích, và các ý kiến.


Ảnh minh họa -Nguồn: Internet


Sự buông xả có thể đơn giản như là việc chúng ta hủy bỏ chương trình, bởi vì thời tiết trong ngày đã thay đổi. Hoặc sự buông xả có thể phức tạp như là chúng ta cần phải quyết-định hy-sinh một điều gì đó giữa các nhu cầu như gia đình, bạn bè, sự nghiệp, cộng đồng, hoặc là sự thực hành về tâm linh.

Cuộc sống hằng ngày đặt chúng ta vào các tình huống mà sự buông xả là điều cần thiết, hoặc đôi khi là điều bắt buộc. Học làm cách nào để chúng ta buông xả một cách khéo léo, là một điều cần thiết để chúng ta có được một cuộc sống hạnh phúc.

So sánh với sự buông xả trong đời sống thế tục, thực tập sự buông xả trong Đạo Phật có nhiều đòi hỏi khắt khe hơn. Ngoài sự từ bỏ một số ý tưởng và sự ham muốn, chúng ta cần thực hành sự buông xả các nhu-cầu bên-trong mà thúc-đẩy chúng ta bám víu vào các ý tưởng, và các sự ham muốn.

Trong Đạo Phật, sự giải thoát không phải chỉ là sự buông xả về các khái-niệm lỗi thời và không chính-xác; mà sự giải thoát cũng còn liên quan đến việc từ bỏ tính kiêu-ngạo trong tâm, mà làm cho chúng ta bám víu vào các ý tưởng liên-hệ đến cái-tôi của chính mình. Sự giải thoát có nghĩa là sự buông bỏ các dính mắc, nằm sâu kín bên trong tâm của chúng ta.

Có những người không tin tưởng vào việc thực hành sự buông xả. Một trong những lý do chính đáng cho sự nghi ngờ nầy, là chúng ta dễ dàng buông bỏ đi những điều sai-lầm, nếu chúng ta không có trí tuệ; thí dụ, như chúng ta nhầm-lẫn buông bỏ đi sự theo-đuổi lối sống lành mạnh, như là việc tập thể dục, hoặc là sự ăn uống lành mạnh, thay vì chúng ta cần phải buông bỏ đi sự-bám-víu vào các sự theo-đuổi nầy.

Một lý do khác cho sự nghi ngờ, là sự buông bỏ (hoặc sự từ bỏ) có thể bị hiểu lầm như là sự bị cách chức, sự yếu đuối, hoặc là cái-tôi của chính mình bị hạ thấp, bởi vì sự hiểu lầm là chúng ta phải từ bỏ các quan điểm, và mong muốn của mình, và thay vào đó bằng các quan điểm, và mong muốn của người khác.

Có hai cách để buông xả, buông bỏ cái-gì-đó, hoặc sự-bám-víu mà chúng ta đang có về cái-gì-đó. Trong một số trường hợp, buông bỏ cái-gì-đó là điều thích hợp. Trong những trường hợp khác, điều quan trọng là buông bỏ sự-bám-víu. Khi có người nào nghiện rượu, điều cần thiết là sự từ bỏ rượu.

Tuy nhiên, khi một người nào đó đang sống chìm đắm trong quá-khứ, thì quá-khứ không phải là điều từ bỏ, mà sự-bám-víu (về quá khứ) là điều cần từ bỏ. Nếu người nầy từ bỏ quá-khứ, họ sẽ mất đi sự hiểu biết. Khi họ không còn sự-bám-víu (về quá khứ), họ sẽ dễ dàng học được các sai lầm mà họ đã có trong quá khứ.

Đôi khi, chúng ta cần phải hiểu được lý-do tại sao chúng ta lại có sự-bám-víu (vào cái-gì-đó), trước khi chúng ta có được sự buông bỏ. Chúng ta cần phải điều tra bản-chất cái-gì-đó mà chúng ta đang bám-víu. Thí dụ, như nhiều người sẽ cảm thấy dễ dàng để buông bỏ sự kiêu-ngạo, khi họ nhìn thấy các phản ứng (không tốt đẹp) của những người khác đối với họ. Khi chúng ta nhìn thấy rõ ràng những gì tiền bạc có-thể, và không-thể mang lại cho chúng ta, chúng ta sẽ dễ dàng để buông bỏ ý-niệm cho rằng tiền bạc sẽ mang đến cho chúng ta một cuộc sống có ý nghĩa.

Đôi khi, điều quan trọng để hiểu là lý do của sự-bám-víu, chứ không phải là cái mà chúng ta đang bám-víu. Sự-bám-víu luôn luôn gây ra sự đau đớn. Đây chính là nguồn gốc của sự khổ đau. Sự-bám-víu làm cho chúng ta chỉ nhìn thấy được một góc cạnh của những gì đang xảy ra. Khi sự-bám-víu trở nên mạnh mẽ, điều nầy có thể làm cho chúng ta không còn nhận biết được chính mình. Sự-bám-víu cản trở khả-năng dễ-thích-nghi và sự sáng-tạo của chúng ta, và điều nầy lập-tức làm cho chúng ta có các cảm xúc phiền não.

Qua việc nghiên cứu về sự-bám-víu, và cái mà chúng ta đang bám-víu, chúng ta sẽ biết được điều gì chúng ta cần phải buông bỏ. Nếu cái mà chúng ta đang bám-víu có hại, chúng ta buông bỏ cái nầy. Nếu cái mà chúng ta đang bám-víu có lợi, chúng ta buông bỏ sự-bám-víu, do đó chúng ta sẽ còn giữ lại phần ích lợi.

Giúp đỡ một người hàng xóm, săn sóc sức khỏe, và phúc-lợi của chính mình, hoặc là thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên là các điều mà chúng ta có thể thực hiện, cùng với sự-bám-víu, hoặc là không có sự-bám-víu. Chúng ta có thể thực hiện các việc trên tốt hơn rất nhiều, nếu chúng ta không có sự-bám-víu.

Trong Đạo Phật, việc thực hành sự buông xả cần có cả hai "mặt" cùng làm việc chung với nhau, giống như hai mặt của một bàn tay. Mặt thứ nhất, mà được nhiều người biết đến, là sự buông bỏ một cái-gì-đó. Mặt thứ nhì là sự buông bỏ rồi-được một kết-quả tốt-hơn. Khi cả hai mặt cùng làm việc, giống như là khi chúng ta nhảy ra khỏi (buông bỏ) tấm ván-nhảy, rồi để thân-thể rơi xuống nước, thư giãn trong hồ bơi, hoặc là chúng ta buông bỏ sự thiếu kiên nhẫn, và rồi-được một kết quả là sự thư giãn, và sự thoải mái.

Trong khi sự buông xả mang lại cho chúng ta rất nhiều lợi lạc, thì việc buông bỏ rồi-được một kết-quả tốt-hơn mang lại một giá trị quan trọng. Nhìn qua góc cạnh nầy, buông xả thì có nghĩa là được thêm, chứ không phải là mất đi. Khi chúng ta buông bỏ sự sợ hãi, nghĩa là chúng ta sẽ có được cảm giác an toàn, hoặc là một cảm giác thư giãn. Từ bỏ nhu-cầu cho mình là đúng, hoặc là từ bỏ ý kiến của mình là đúng, cho phép người nầy có cảm giác bình an.

Buông xả các ý nghĩ có thể giúp cho tâm chúng ta được an bình hơn. Bằng cách buông bỏ rồi-được một kết-quả tốt-hơn, làm cho chúng ta dễ dàng buông bỏ những gì có hại cho chúng ta. Đôi khi, chúng ta không muốn buông bỏ bởi vì chúng ta không nhìn-ra được sự thay-thế là điều tốt-đẹp hơn, so với những gì chúng ta đang nắm giữ. Khi chúng ta nhìn thấy lợi-ích rõ ràng trong sự buông bỏ, chúng ta sẽ dễ dàng để thực hiện điều nầy.

Qua truyền thống hiểu biết về sự xuất gia, chúng ta có thể nhìn thấy rằng Đạo Phật nhấn mạnh về những gì chúng ta có thể đạt được qua sự buông xả. Từ ngữ "xuất gia" trong Anh Ngữ có nghĩa là sự từ bỏ, trong khi từ ngữ "xuất gia" trong Phật Giáo có nghĩa là sự từ-bỏ một nơi chốn bụi bặm và chật hẹp, để đi-đến một nơi chốn sạch sẽ, với một không gian rộng mở.

Hãy tưởng tượng, rằng trong suốt một mùa đông tuyết phủ, bạn đang ở trong một căn phòng nhỏ, chật hẹp cùng với các người thân. Mặc dù bạn thương yêu các người thân nầy, tuy nhiên, khi bạn mở cửa đi ra ngoài, bạn trông thấy mùa xuân, rồi tâm bạn cảm thấy vô cùng tuyệt vời.

Một trong những điều tốt đẹp về sự buông xả rồi-được một kết-quả tốt-hơn, không phải là chúng ta có lòng mong muốn một cái-gì-đó, hoặc là chúng ta tạo ra một cái-gì-đó, mà điều tốt đẹp chỉ là nhờ có sự cho phép hoặc là nhờ có sự thư giãn. Một khi chúng ta đã biết bơi rồi, chúng ta cảm thấy thoải mái khi thả nổi, bằng cách chúng ta cho phép nước đẩy chúng ta lên.

Một khi chúng ta có lòng từ bi, (có những lúc) chúng ta không những chỉ buông bỏ sự ác-ý, mà còn cho phép chúng ta chia sẻ một sự đồng cảm với người khác. Buông bỏ sự sợ hãi, rồi sau đó cho phép chúng ta được nghỉ ngơi trong một cảm giác bình an.

Một kết quả tuyệt vời của sự buông xả, là để chúng ta hiểu biết rằng khi sống trong từng giây phút là tự đầy đủ rồi, và chỉ cần như thế thôi. Điều nầy cho phép chúng ta có mặt ở đây, ngay bây giờ, trong sự tự do và trong sự hiểu biết rõ ràng, bởi vì sống được trong từng giây phút nầy là điều có ý nghĩa sâu sắc nhất. Chúng ta có thể buông bỏ sự vội vã lao mình vào tương lai, cũng như buông bỏ các cách tưởng tượng khác nhau của chúng ta như là "Tôi chưa được tài giỏi", hoặc là "Bây giờ chưa đúng thời điểm", để chúng ta có thể khám phá ra được rằng niềm hạnh phúc, và sự bình an không bao giờ phụ thuộc vào những gì chúng ta tin tưởng, hoặc là mong muốn.

Trong Đạo Phật, kết quả của sự thực hành là (buông xả) để đi vào các trạng thái tốt đẹp, có ý nghĩa, và tinh khiết của tâm-rộng-mở. Đặc biệt, là chúng ta có thể hiểu biết được sự bình-an thấm đẫm trong tâm, qua sự buông xả, hoặc qua sự buông xả rồi-được một kết-quả tốt-hơn. Khi chúng ta buông xả cái-tôi mà đang sống trong sự bình an, thì chúng ta sẽ có sự bình-an hoàn toàn. Khi không còn cái-tôi, thì điều còn lại chỉ là tâm-bình-an mà thôi.


Vườn hoa Phật giáo
 

PhuongChau

Diễn đàn XNC
#47
Giá trị bình yên

Giá trị thật sự của cuộc đời là sự bình yên trong tâm hồn. Chỉ có một tâm hồn bình yên mới mang lại đời sống hạnh phúc viên mãn.


Ảnh minh họa -Nguồn: Internet

Có bao giờ bạn tự hỏi đâu là giá trị thực sự của cuộc đời? Có lẽ với nhiều người, tiền bạc, địa vị, danh phận, và quyền lực mới là thước đo giá trị ở đời. Vì thế mà nhiều người phấn đấu đạt cho được những thứ đó để chứng tỏ giá trị của bản thân. Người không đạt được thì buồn tủi thân phận, mặc cảm tự ti với đời. Người đạt được thì cũng lắm nỗi đau khổ khác như bị soi mói, bị nói xấu, bị xúc phạm, bị ganh ghét, bị thị phi…

Danh vọng, địa vị, tiền bạc, và quyền lực có thể có giá trị nhất định nào đó nhưng chắc chắn không thể giúp ta hài lòng với mọi thứ ở đời, không thể đảm bảo cho một đời sống hạnh phúc viên mãn. Vậy đâu là giá trị đích thực của đời sống?

Kinh Phật kể lại câu chuyện một người đến thăm người bạn thân giàu có lâu ngày không gặp, sau khi vui vẻ ăn uống no say người này lăn ra ngủ. Người bạn chủ nhà vì có việc quan khẩn nên đi gấp, ông bèn tặng người bạn một viên ngọc quý giấu trong chéo áo rồi ra đi. Người này tỉnh dậy không thấy bạn mình đâu nên ra về. Ông qua xứ khác làm ăn nhưng thất bại, cực khổ nghèo khó, phải làm thuê, xin ăn qua ngày. Sau này hai người gặp lại, ông mới biết mình có một viên ngọc vô cùng quý giá mà không hề hay biết, không hề sử dụng đến. Câu chuyện ngắn nhưng được xem là giá trị cốt lõi của một bộ kinh lớn của đạo Phật.

Câu chuyện ngụ ý trong mỗi chúng ta có một viên ngọc vô cùng quý giá mà không hề hay biết, không hề dùng đến. Đức Phật ra đời mục đích là chỉ cho ta thấy viên ngọc đó nơi tâm của mình. Viên ngọc ấy chính là nguồn tâm vô nhiễm, thuần khiết, thanh tịnh, tĩnh lặng; là cõi bình yên sâu thẳm nhiệm mầu; là sự an nhiên thanh thản diệu kỳ tận đáy lòng. Viên ngọc đó là gia tài vô giá của chúng ta. Dù ta là ai trên cuộc đời này đều sở hữu gia tài vốn có ấy của riêng mình. Không ai bắt bạn nghèo thì cõi lòng không được bình yên, không ai bắt bạn nghèo, thì tâm hồn không được thanh thản. Lòng bình yên, thanh thản là tài sản vô giá của mọi người.

Cho nên khi chúng ta khai mở được nguồn gia tài đó, chạm được vào cõi bình yên sâu thẳm đó thì dù ta là gì đi nữa ta cũng được hạnh phúc vô cùng, giàu cũng hạnh phúc mà nghèo cũng hạnh phúc, làm một ông vua cũng hạnh phúc mà làm một người ăn xin cũng hạnh phúc. Giá trị của sự bình yên như vậy vượt lên trên mọi giá trị khác nên nó được ví như viên ngọc vô giá. Không có gì ở đời có thể so sánh với giá trị bình yên, vì dù bạn có giàu có đến mức nào, danh vọng cao đến đâu, quyền lực mạnh cỡ mấy cũng vẫn bị khổ đau như thường nếu bạn không nhận ra viên ngọc bình yên thanh thản ấy nơi chính mình.

Quán chiếu nội tâm là cách để ta tiếp xúc được với cõi bình yên trong lòng mình. Điều này ban đầu ta rất cần một nơi thanh tịnh, hay một khung cảnh yên bình, không bị người khác quấy rầy để thực tập. Không gian yên tịnh có tác dụng đánh thức sự bình yên trong tâm trỗi dậy. Thường vào những lúc ở một mình, ta rất sợ phải đối diện với khoảng lặng, khoảng trống trong lòng nên tìm cách khỏa lấp bằng những hoạt động bên ngoài như xem phim, nghe ca nhạc, nói chuyện với bạn bè… Nhưng nếu là người sống có chiều hướng tâm linh một chút, ta rất quý trọng những giây phút vắng lặng đó, vì những lúc như vậy ta có cơ hội rất tốt để tiếp xúc với cõi bình yên trong lòng mình.

Nếu ta luôn tự nhắc mình rằng trong nội tâm thường hiện hữu sự bình yên tịnh lạc vốn có, không điều gì có thể phá vỡ được sự bình yên đó, không ai có thể hủy diệt được sự bình yên đó, ngoại trừ chính những suy nghĩ, và cảm xúc tiêu cực của mình, thì ta tạo ra được hệ thống an ninh cảnh giác tất cả những suy nghĩ và cảm xúc gây phá vỡ sự bình an của mình. Hệ thống cảnh giác này luôn phát hiện và loại bỏ ngay những suy nghĩ, và cảm xúc phá vỡ tính chất bình yên của tâm. Vì thế hãy luôn nghĩ đến sự bình yên vốn có trong tâm để mình lúc nào cũng an trú trong niềm hạnh phúc diệu kỳ của tâm hồn.

Chúng ta có quá nhiều ham muốn vì đâu? Là vì chúng ta không khám phá ra được nguồn tâm an lạc đủ đầy vốn có của mình. Chúng ta lúc nào cũng cảm thấy thiếu vắng hạnh phúc, an lạc nên tham muốn đủ thứ để mong có được chút hạnh phúc khi được thỏa mãn chúng. Nhưng hạnh phúc tìm cầu bên ngoài bằng cách thỏa mãn những ham muốn chỉ là những hạnh phúc vụn vặt, nhỏ nhoi, tầm thường so với hạnh phúc vô lượng vô biên của nguồn tâm yên bình tịnh lạc vốn có của mình.

Chính vì vậy mà khi đạt được nguồn tâm ấy, Phật hoàng Trần Nhân Tông đã tuyên bố, ta xem ngai vàng như chiếc giày rách. Quả thật đối với ngài, ngai vàng cũng chỉ là thứ hạnh phúc vụn vặt, nhỏ nhoi, tầm thường so với nội tâm bình yên mà ngài đạt được. Cho nên khi ta khám phá được cõi bình yên vô tận trong tâm hồn thì một cảm giác hạnh phúc, sung sướng, mãn nguyện tràn ngập mà cả cuộc đời dù ta có đạt được bao nhiêu thành công, có được bao nhiêu vật chất đi chăng nữa cũng không thể sánh bằng.

Chúng ta luôn ý thức, và tự nhắc rằng mình có một gia tài bình yên vô cùng quý giá. Gia tài ấy chứa vô lượng tình thương, vô lượng trí tuệ, vô lượng hạnh phúc, vô lượng hỷ lạc. Ta không biết mình có một gia tài vô lượng vô biên như thế nên cứ mãi làm kẻ ăn mày hạnh phúc của người khác. Ai cho ta chút tình thương, ta mới được hạnh phúc, ai cho ta chút lợi lộc, ta mới được hạnh phúc… Đấy là ta đang ăn mày hạnh phúc của kẻ khác. Vậy thì hãy trở về cõi bình yên tĩnh lặng trong ta để tận hưởng hạnh phúc diệu kỳ, đừng là người nghèo khó thiếu thốn hạnh phúc như anh chàng trong kinh Phật mô tả nữa.

Giá trị thật sự của cuộc đời là sự bình yên trong tâm hồn. Chỉ có một tâm hồn bình yên mới mang lại đời sống hạnh phúc viên mãn. Nếu cứ đeo đuổi các giá trị vật chất bên ngoài, ta toàn thấy người khác hạnh phúc hơn mình, vì họ có những giá trị vật chất mà mình khát khao nhưng không thể có được. Ta càng khát khao sự giàu sang của người khác bao nhiêu thì càng cảm thấy mình kém cỏi, bất tài, thiếu phước, tự ti mặc cảm với đời bấy nhiêu. Nhưng khi giác ngộ được giá trị cốt lõi của đời sống là sự bình yên, thanh thản trong tâm hồn thì ta thấy mình phước báu vô cùng, hạnh phúc vô cùng, vì dù người khác có sở hữu bao nhiêu vật chất đi chăng nữa, ta vẫn thấy ở họ sự bất an, căng thẳng nếu họ không nhận ra được giá trị cốt lõi nơi tâm mình.

Từ giá trị cốt lõi bình yên sẽ đưa đến đời sống đầy mãn nguyện và hài lòng. Điều này không có nghĩa là bạn không cần phải làm gì cả, không còn ước mơ, và khát vọng nữa.
Khi bạn chạm vào được thế giới an nhiên nơi tâm mình, mọi ước mơ vẫn còn đó, nhưng không còn làm bạn đau đầu nữa, mọi khát vọng vẫn còn đó nhưng không còn tạo áp lực lên bạn nữa. Bạn vẫn hành động để thực hiện ước mơ, vẫn làm việc để đạt được khát vọng nhưng tất cả đều nằm trong sự bình yên của tâm hồn. Vì thế, dù bạn có thực hiện được ước mơ hay đạt được khát vọng hay không thì trong bạn luôn hiện hữu sự mãn nguyện đủ đầy và hài lòng với mọi thứ ở đời.

Giá trị cốt lõi bình yên còn đưa đến nhiều giá trị khác nữa, như tình yêu thương chân thành, sự vị tha, lòng bao dung, sự sẻ chia đích thực. Một tâm hồn chứa chất với bao suy nghĩ cân đo đong đếm, tính toán thiệt hơn, làm sao bạn có thể yêu thương chân thành một ai đó. Một tâm hồn xao động với bao thù hận, ghét ghen, ích kỷ, làm sao bạn có thể tha thứ bao dung, sẻ chia, cảm thông với người khác. Vậy thì, không thể có một tâm hồn bất an, đầy dao động, xáo trộn mà có những đức tính tốt đẹp đó được. Chỉ có một nội tâm yên bình mới có thể phát sinh những giá trị nhân văn cao cả nhất mà thôi.

Nếu tâm không bình yên, bạn khó có thể chứa nổi một cử chỉ khiêu khích, một lời nói xúc phạm. Chẳng hạn đang có sự buồn bực mà nghe một lời nói không hay về mình thì bạn dễ dàng cáu tiết lên. Nhưng khi lòng thật sự bình an, bạn có khả năng dung chứa hết mọi thứ ở đời như khen chê, phải trái, đúng sai, đẹp xấu, ưa ghét, hài lòng hay không hài lòng…Lòng bình yên thì mọi cử chỉ đi đứng nằm ngồi, nói năng, làm việc đều trở nên nhẹ nhàng thanh thoát, tinh thần lạc quan tràn ngập, có thể mỉm cười với mọi thử thách chông gai ở đời. Từ giá trị bình yên trong lòng sẽ cho bạn một thái độ sống an nhiên tự tại trong cuộc đời.

Tôi rất tâm đắc lời kết trong một bộ phim cực ngắn nói rằng tất cả những gì chúng ta cần trong đời chỉ nằm trọn trong hai chữ bình yên. Quả thật, điều quý giá nhất trên cuộc đời này không phải tiền tài, sự nghiệp, bổng lộc, mà chính là sự bình yên trong tâm hồn. Vì thế, bạn đừng bao giờ sợ mình nghèo, sợ sự nghiệp không thành, sợ công danh không toại, mà sợ lòng không được bình yên. Lòng bình yên thì mọi thứ sẽ đến. Mỗi khi mùa Phật đản về, lòng cảm thấy bình yên lạ thường!


Vườn hoa Phật giáo
 

PhuongChau

Diễn đàn XNC
#48
Tản mạn ngày đầu Đông

Em đã thấy Phật hiện hữu trong em chưa? Còn riêng ta, ta thấy trong em có Phật, ta thấy trong em có bình an, từ nụ cười ánh mắt hồn nhiên, đều tỏa ra năng lượng bình yên, ta mong em thấy Phật trong em, ta mong em tìm được bình an trong em. Thương em!


Ảnh minh họa - Nguồn: Internet

Chiếc lá cuối cùng cũng rụng xuống, liệng theo gió chiều hiu hắt cuối thu, bất lực vì không níu kéo được sắc xanh trên mình, để nhuốm mình vàng úa hanh hao, nhường chỗ cho mùa đông lạnh giá đang trải dài trên từng góc đường, con ngõ. Đông về như một mặc định của tự nhiên dành cho quy trình tiết trời Bắc bộ, trời bắt đầu se lạnh, mọi người cũng gấp rút mang áo ấm, chăn lông ra giặt chuẩn bị ứng phó với những cơn lạnh thấu xương, nhiều nỗi niềm được khơi dậy trong tâm trí tôi, thương cảm các vị dân làng sáng sớm đã tất bật khoác lên mình các tấm áo tơi ra đồng, lên rẫy.

Vì đầu đông những cơn mưa lất phất vẫn thường làm khó những người dân lao động, tội nghiệp nhất các cháu bé phải gồng mình chệnh choạng đạp xe trong làn sương mỏng manh cùng với những cơn gió mùa đông bắc kéo về, với hy vọng đến trường học đôi con chữ ngõ hầu sáng tỏ tương lai. Bạn sẽ bắt gặp cái mùi hoa sữa trong những khóm bông cuối mùa quyện hòa vào không khí se lạnh rất khác biệt vào thời điểm giữa thu, không còn nồng nàn, không còn da diết nữa thay vào đó là sự nhẹ nhàng thoảng qua, một sự dịu dàng sâu lắng của sự trải nghiệm. Chút liên tưởng nảy sinh trong đầu, điều này làm tôi cảm thấy nên trân trọng, và lắng nghe kinh nghiệm của những người lớn tuổi, vì biết đâu thời tuổi trẻ họ đã dọc ánh tung trời một cách vàng son.

Bức tranh làng quê hiện ra một cách sống động giữa tiết trời ướt át khiến lòng người cũng day dứt khó tả. Cuộc sống là thế! Bạn luôn bắt gặp một chuỗi chu kì bất tận của tiết trời hết năm này lại xoay vần năm khác, đồng thời bạn cũng có một chuỗi hành trình để phấn đấu suốt một đời, rồi lại chuyển đến một kiếp tái lai để tiếp tục cuộc hành trình mới mẽ khác.

Có người bảo đôi khi ta dành cả đời để chinh phục mục tiêu, nhưng liệu rằng ta có thật sự hạnh phúc, và bình an trước mục tiêu đã hoàn nguyện hay chưa, mà có chắc mục tiêu ta đặt ra đã là đúng đắn, vậy nên suy cho cùng thì hành trình mới thật sự quan trọng. Đôi khi hạnh phúc cũng nằm dưới con đường mà đôi chân ta hằng ngày bước qua rất vội, có lẽ chúng ta không đủ thời gian để dừng lại để cảm nhận phải không?

Trong cái cảm khái trước sự vô định của kiếp nhân sinh, lòng tôi nảy nở lên những câu nói an ủi quen thuộc mà đã từng vô tình nghe đâu đó.

Em thương! ta nghe chăng một mầm cây mang thai khu rừng, một bàn chân mang thai con đường, một giọt nước mang thai biển khơi, và cũng có một bàn tay mang thai, tình người, hạnh phúc đâu phải xa vời, hãy dừng lại, em sẽ thấy nó nằm ngay dưới lòng bàn chân em thôi, cuộc sống tất bật, người bôn ba, người lo xa, kẻ vì sự nghiệp người vì công danh. Còn em! Em đã có bình an chưa?

Em đã thấy Phật hiện hữu trong em chưa? Còn riêng ta, ta thấy trong em có Phật, ta thấy trong em có bình an, từ nụ cười ánh mắt hồn nhiên, đều tỏa ra năng lượng bình yên, ta mong em thấy Phật trong em, ta mong em tìm được bình an trong em. Thương em!

Vậy nên đừng coi hạnh phúc là mục tiêu, mà hãy coi nó như một “khối” có thể dễ dàng tìm được bất cứ ở đâu, và bất cứ khi nào, hãy là một người thợ khéo tay, tự chế tác lấy nó, nó sẽ là thành quả cho riêng em.


Vườn hoa Phật giáo
 

PhuongChau

Diễn đàn XNC
#49
Chiếc lá về nguồn

Dưới mặt đất lá vàng vẫn rơi rụng, ngày tiếp ngày hằn sâu thêm vóc dáng một đời người cặm cụi theo thời gian. Trò chơi nhân thế buộc mọi người mãi loanh quanh để vui thú cho trọn với cuộc đời, nào có mấy ai cất công tìm hiểu, xem đâu là nguồn cội để quay về.


Ảnh minh họa - Nguồn: Internet

1- Sáng sớm đã nhìn thấy lá vàng rụng đầy sân. Ừ, đang mùa thay lá mà. Sân chùa có nhiều cây cao bóng mát cho khách thập phương ghé lại tham quan thưởng ngoạn. Thế nên hoa lá, và cây trái cứ mặc sức đua chen cùng gió trời vi vút. Chốn Già Lam những ngày không lễ hội, cảnh vật mới thật sự mang bản sắc im lìm vắng lặng. Thi thoảng lắm mới có tiếng xào xạc của mấy chiếc lá vừa lìa cành. Dường như lá cũng sợ dẫm mình trên cõi đất bình yên.

Có hai cô học trò nhỏ vừa bước đến bên gốc cây bàng ngồi học bài. Họ mở sách, và mãi miết chăm chú nhìn vào đó. Không gian vẫn yên ắng mang theo tiếng thở dài của ai đó bên kia bức tường rêu. Một chiếc lá vô tình chạm nhẹ vào tay cô bé áo hồng mang cặp kính cận dày cộm. Cô áo xanh bên cạnh ngước nhìn trời nhìn đất rồi bâng quơ hỏi bạn, chắc cũng muốn xé tan khoảng không gian trống vắng quanh mình:

Ê! Mi có thấy những chiếc lá vàng vừa rụng xuống không?
Cô áo hồng trả lời mà mắt không rời quyển sách: Thấy... rồi sao...?
- Đó là những chiếc lá đang tìm về nguồn đấy...
- Lá mà về nguồn à? Người ta nói cây có cội nước có nguồn. Lá rụng thì phải về cội. Mi bày đặt văn chương hóa đến sai bét. Cứ nói lá rụng đi có được hơn không- Cô áo hồng ra vẻ hiểu biết ngắt lời bạn.

- Thì cội hay nguồn cũng thế thôi. Tại người ta phân biệt ra nguồn là nơi phát sinh của sông suối, còn cội là chỉ cho gốc rễ. Chung quy cũng là chỉ cho đầu mối ban đầu của vạn vật. Ngôn từ thì có khác mà ý nghĩa cũng như nhau. Cho nên...

- Thôi đi nhà ngôn ngữ học tương lai à! Lo học bài thi đi. Còn chuyện mổ xẻ văn chương chữ nghĩa thì để sau này.

Cô áo xanh vẫn liếng thoáng: Ý Ta đang muốn nói đến điều khác cơ. Lá rụng thì trở về với cội nguồn, trở về với lòng đất nơi mà nó đã nảy mầm sanh ra. Con người ta chết rồi cũng trở về đất. Người ta không sanh ra từ đất mà từ lòng mẹ, do vậy mà họ lấy đất để biểu trưng cho lòng mẹ. Người trở về đất cũng là trở về với lòng mẹ, nơi khai thiên lập địa từ thuở ban đầu. Đất chính là nguồn cội, mọi sự sống, và cái chết đều bắt nguồn từ đó.

Cô áo hồng khẻ nhíu mày nhìn bạn: Sao bữa nay Mi ăn nói lạ lùng thế? Mình ra đây để học bài thi chứ đâu phải để triết lý về cội nguồn của sự sống. Mi mới đến cửa chùa có mấy bữa mà coi bộ thấm nguồn tâm rồi. Thôi học bài đi nhỏ. Họ lại im lặng. Những trang sách giở đều theo tiếng rì rào bâng khuâng của đám cỏ cây. Mặt đất vẫn thanh bình giữa mênh mông của cảnh chiều trôi.

2 - Bên kia bức tường xanh màu rêu bạc. Cô gái áo trắng nãy giờ ngồi ngoài ban công nhà mình vô tình nghe được lời đối thoại vừa rồi. Cô đã ngồi hằng giờ, thậm chí đã ngồi từng ngày này qua tháng khác; nơi một góc nhỏ bên chậu hoa lý chỉ để nhìn ra khoảng trống trước sân chùa, như một thói quen vô thức mỗi khi rảnh rỗi.

Câu chuyện chiếc lá về nguồn của hai cô bé nọ, có lẽ chỉ là chút cảm nhận thoáng hiện của tuổi học trò. Nhưng đã đọng lại trong lòng người nghe ít nhiều khái niệm mới mẻ. Cảnh vật này hằng ngày cũng chỉ là mây bay lá rụng. Hoa cỏ đủ sắc màu khi thì tươi thắm rực rỡ, lúc nhạt nhẽo buồn tênh qua mỗi cái nhìn hờ hững. Từ những chiếc lá xanh non cho đến lúc úa tàn héo rũ, đã trở thành quy luật thay đổi mất còn của tạo hóa. Mọi thứ được sinh ra đến một lúc nào đó phải huỷ diệt đi. Huỷ diệt để cho cái mới tiếp tục sinh sôi, và lớn lên.

Trong hành trình sinh sinh diệt diệt này thì cái bắt nguồn là từ đâu. Nếu cái mất đi chính là sự trở về, thì cái sinh ra là nơi bắt đầu cho mọi sự sống. Và cũng có thể hiểu ngược lại. Nơi trở về cũng là nơi bắt đầu cho một cuộc hành trình bất tận, còn chốn sinh ra cũng là để trở lại trong cái vòng xoay nghiệt ngã của kiếp sinh tồn.

“Con người sinh ra đời phải làm nên điều gì đó, để khi chết không thẹn cùng núi sông cây cỏ” không biết triết gia nào đã lập ra luận đề sống cho đời người như thế. Vậy mà có lần cô nghe từ băng giảng mà ngoại thường mở: “Sang hèn vinh nhục, cực khổ bon chen tích luỹ cho nhiều của cải rồi cũng phải chết, thân xác người rồi cũng theo cát bụi tan biến vào hư vô. Vậy hà cớ gì người ta cứ mãi chạy tìm chút ảo ảnh của kiếp phù sinh. Còn cái nguồn tâm trong sáng, cái ý thức trở về thì người ta lại bỏ quên, không biết trau dồi để tìm cho mình một hướng đi về an lành vĩnh cữu”.

Ôi! Vậy thì cái trở về, cái nguồn cội ý thức ấy là gì nhỉ? Bạc tiền danh vọng rồi cũng mất, sang hèn vinh nhục cũng không còn. Và cái nguồn tâm trở về đó không biết đã có ai nhìn thấy chưa, chứ thực tại thì con người ta sống không thể thiếu khát vọng vươn lên. Vươn tới đâu cũng được, miễn là chu toàn một lẽ sống thường tình trong vòng nhân thế.

Chỉ đến khi ai đó chợt hiểu ra cái nguyên lý sinh diệt khó tránh khỏi, mới vội vã đi tìm cho mình một chút bình yên nơi cõi chết. Khi Ngoại từ nước ngoài về định cư luôn ở quê nhà cũng đã nói: “Ngoại nay gần đất xa trời rồi, cũng phải trở về quê cha đất tổ để gởi nắm xương tàn. Đời người có mấy thuở, bôn ba đến chết rồi cũng trắng tay con à...”

Bây giờ ngoại đã mãn nguyện nằm yên dưới lòng đất lạnh, ngay nơi mảnh đất quê hương. Ừ, ngoại nói câu ấy khi đã đi đến chặng cuối của con đường đời. Nhưng còn cô, ở tuổi thanh xuân cô cần phải ruổi tìm cho mình một tương lai để đảm bảo cho cuộc sinh tồn tiếp nối. Mẹ không ngừng hối thúc: Con phải đi, đừng dùng dằng suy nghĩ nữa.

Cô cố ý nhại lại lời của Ngoại: Đời người bôn ba cho lắm rồi cũng tay không trở về. Có đi đâu trọn kiếp thì mai này cũng quay lại mái nhà xưa Mẹ à.

Mẹ dịu giọng nhưng vẫn cương quyết: Con còn trẻ, đâu phải chỉ biết sống cho riêng mình. Ngoại già rồi thì khác. Người già thường tìm về sống với nguồn gốc quê hương.

Như vậy nguồn cội sự sống của cô bây giờ là ở một nơi nào đó, xa lạ với những gì quen biết ở đây, xa hẳn với cách tư duy trầm mặc mà cô chịu ảnh hưởng ít nhiều từ ngôi chùa cạnh nhà. Rồi một mai khi tuổi xế chiều, cô lại nói với đám con cháu rằng mình mong muốn được trở về nơi chôn nhau cắt rốn. Lúc ấy ngôi chùa cũ chắc vẫn còn đó, mà tháng năm tường nghiêng ngói đổ càng làm cho lòng người trở về man mác chút lòng hoài niệm xa xôi về một thời đã mất:

Ta tìm về lối xưa
Nhưng đường xưa mòn dấu
Trăng mấy mùa đã qua
Mưa rơi đã mấy lần...?

Ở đâu thì cũng với chừng ấy thời gian, và không gian. Khác chăng vì sự thế xoay vần, nên con người đôi khi cũng phải vần xoay theo cho hết đời dâu bể. Nói gì thì nói, mai này cô cũng đi rồi. Ngôi chùa, và cảnh tượng hôm nay, chỉ còn là chút mờ sương động lại trong ký ức. Cuộc hành trình dường như chỉ mới bắt đầu. Dù sao thì lá vẫn xanh, bầu trời vẫn toả sáng, và đời người thênh thang trong nẻo sống vẫn cứ phải ươm mầm cho bao chồi non khác vươn xa. Ôi! những chiếc lá xanh, dù mi có tồn tại hay không thì niềm tin về một ngày mai luôn tỏa sáng.

3- Câu chuyện chiếc lá về nguồn chỉ còn lại chứng nhân duy nhất là mấy gốc cây bàng già cỗi đi qua cùng năm tháng. Sân chùa ngày thường chỉ đón nhận đám thanh thiếu niên thích tìm nơi yên tịnh học bài, hoặc để dạo chơi ngắm cảnh. Cô gái áo xanh áo hồng ngày trước thôi không còn lai vãng.

Một cơn gió thoảng, một chiếc lá vàng vừa rời khỏi sự sống trên cành nào còn ai bận tâm bình phẩm hay triết lý về cội nguồn của nó. Ngôi nhà bên bức tường rêu đã đổi chủ. Cô gái áo trắng đã đi về một phương trời khác rồi. Có lẽ cô đã đi thật xa. Nơi xứ lạ chắc không rãnh rỗi ngồi nhìn lá rụng mà suy tư vẩn vơ về thân phận kiếp người. Tất cả rồi cũng nhanh chóng lãng quên theo mỗi bước đường vân du vô định.

“ Sông dài cá lội bặt tăm
Biết đâu lối cũ mà tìm về thăm”

Vị sư già mỗi sáng ra quét sân, dọn sạch lá rụng để cho đám học sinh có nơi chỗ đến học bài. Gương mặt sư vẫn điềm đạm ung dung trong tà áo lam thanh thoát. Và chưa bao giờ Sư tỏ ý phàn nàn khi bọn trẻ chơi đùa thích níu bứt mấy cành lá xanh vứt bừa cả sân. Lá xanh lá vàng thì cũng sẽ nằm gọn dưới một nhát chổi thôi.

Mà đâu phải chỉ có lá vàng mới trở về nguồn cội, đôi khi lá xanh vẫn chịu cảnh xa ngọn lìa cành. Không biết trong lòng sư có khởi lên ý niệm đó không, thỉnh thoảng chỉ thấy người ngước lên như để lắng nghe tiếng hót líu lo của mấy chú chim sâu đang di chuyển qua lại trên cành cao.

Dưới mặt đất lá vàng vẫn rơi rụng, ngày tiếp ngày hằn sâu thêm vóc dáng một đời người cặm cụi theo thời gian. Trò chơi nhân thế buộc mọi người mãi loanh quanh để vui thú cho trọn với cuộc đời, nào có mấy ai cất công tìm hiểu xem đâu là nguồn cội để quay về.


Vườn hoa Phật giáo
 

PhuongChau

Diễn đàn XNC
#50
Khổ đau là do tự mình làm ra

Trong kinh Pháp Hoa có nói: Nguyện vọng lớn nhất cho sự ra đời của đức Phật là “khai thị ngộ nhập tri kiến Phật cho tất cả chúng sinh”. Đức Phật có mặt trong cuộc đời là nhằm khai tri kiến Phật, nhằm giúp cho chúng sinh nhận ra tri kiến của mình để giác ngộ, để thoát khổ, và giải thoát sinh tử. Bởi lẽ Ngài thấy rằng, chúng sanh “Biết khổ đau sao dứt bỏ chẳng đành”.


Ảnh minh họa - Nguồn: Internet

Khổ đau có từ đâu?
Đau khổ đến từ những thói quen thông thường mà dục vọng của chúng ta sinh ra trong cuộc đời mà không dễ từ bỏ, không dễ kiềm chế. Những thói quen đó chính là tham, sân, si, ích kỷ. Chúng ta hẳn đã biết những thói quen này nhưng không đủ bản lĩnh để dứt bỏ chúng. Hoặc không nhận diện ra được thói quen này (hay còn gọi là bản năng sống vốn có) nên mãi lao đao, chìm đắm trong sự khổ đau ở bản thân mình. và ảnh hưởng đến những người xung quanh.

Tham nói từ đơn giản như vậy chớ tham nhiều thứ: tham tài, tham sắc, tham danh, tham ăn, tham ngủ. Cái đó chúng ta không dễ dàng gì vượt qua, và kiềm chế được đâu! Kiềm chế cái này chưa chắc kiềm chế được cái khác, có người không tham ăn thì tham tiền, tham sắc, tham danh hay gì đó, có người không tham danh thì tham cái khác.

Nói chung, vô vàng thứ, mà bây giờ nếu chúng ta học theo giáo lý của đức Phật chúng ta phải từ bỏ các thói quen đó, không dễ tí nào, chừng nào chết bỏ, chứ thật ra bỏ những thói quen đó khó vô cùng. Biết khổ đau sao dứt bỏ chẳng đành]Biết khổ đau sao dứt bỏ chẳng đành

Minh chứng là sự tích Ăn khế trả bàng, một câu chuyện dân gian nổi tiếng nói về lòng tham khó bỏ của con người. Trong câu chuyện, khi biết người em được con quạ chở đi lấy vàng, người anh đã bắt chước tìm cách tương tự để được con quạ chở đi lấy vàng. Thay vì may túi ba gang theo lời dặn, người anh mấy túi mười hai gang. Đến khi đang bay qua biển, vì số vàng nặng quá, quạ bay không nổi nên kêu người anh bỏ bớt vàng xuống biển. Nhưng anh ta vì lòng tham nên cố ôm chặt túi vàng. Cuối cùng bị ngã xuống biển, và chết.

Hay vừa qua, tại Hà Nội xảy ra vụ con trai, và con dâu kiện bà mẹ già 81 tuổi mắt kém, tai không còn nghe rõ, được các con dẫn vào phòng xử án. Vì tranh chấp miếng đất chưa đầy 20m2, tình ruột thịt của họ đã sứt mẻ. Hoặc sự việc đại gia Lê Ân kiện con cái về vụ tranh chấp ngôi nhà ở Sài Gòn.

Từ thói quen thông thường, nỗi khổ xuất hiện
Thói quen của lòng tham, sự sân si, ích kỷ không những làm tự thân chúng ta khổ mà còn là cách để kẻ khác dễ dàng lợi dụng. Ở đời, chính cái biết sở thích của con người như vậy cho nên người ta chiêu dụ cái này người ta hại nhau, người ta lợi dụng nhau, gạt gẫm nhau bằng thói quen của con người.

Trên cuộc đời này ai không tham tài, tham sắc, tham danh, tham lợi, tham nhiều thứ, thì không bao giờ bị gạt. Chỉ có khi nào tham mới bị lừa, bị gạt, và bị khổ sai về điều này thôi. Đây là điều đương nhiên. Khổ thì khổ nhưng từ bỏ không được. Cũng như muốn không mỏi tay mà không chịu buông bỏ cục vàng nặng trĩu đang cầm trên tay.

Thấy một ai hơn chúng ta, máu ganh tỵ của chúng ta nổi lên liền. Cho nên ở đây sự thật không dễ dàng kiềm chế cái sân, cái si của chúng ta, nếu dễ dàng kiềm chế thì không ai khổ cả. Chúng ta cứ sống theo thói quen, bản năng và sở thích của chúng ta thì làm sao biết được là mình đang là tật xấu? Mình làm khổ người mình cũng không biết. Mình sống ư hèn mình cũng không biết. Cho nên nếu chúng ta không học Phật chúng ta càng lấn vào sâu trong những thói hư tật, xấu này nữa, mà chúng ta không bao giờ nghĩ đó là những thói hư, tật xấu trong cuộc đời. Một điều chắc chắn là như vậy.

Trên nguyên tắc, hạnh phúc tạm thời của cuộc đời là cái gì?
Sắc đẹp, sức khỏe, tiền tài, thọ mạng. Đây là những cái nhu cầu của con người chúng ta trong cuộc đời. Dù mình không may mắn, không đủ phước báu đẹp thôi, chứ còn sở thích tự thân chúng ta ai cũng thích đẹp mà. Cho nên vì chỗ đó, chỗ ganh tỵ, chỗ hãm hại nhau, người ta lại lấy lưỡi lam rạch mặt là chỗ này.

Tức là nghĩ rằng một người nào đó đẹp, phá hoại hạnh phúc của mình, cho nên tạt axit làm cho nó tàn tạ dung nhan. Tức là biết sở thích của mình là cái gì, nếu muốn trả thù ai thì mình phá hoại ngay chỗ sở thích, mà mình nghĩ đó là như vậy.

Con người thường nếu hãm hại con người, thì họ hay tìm cách làm đau khổ người khác, và người ta dựa vào sở thích của chính họ để họ làm người khác. Họ biết một lời mắng chửi họ đau, thì họ muốn trả thù ai, làm khổ ai, họ phải dựa vào cái mà mình bị đau, họ sẽ làm với người khác. Và họ nghĩ rằng hành động đó sẽ làm người đó đau như suy nghĩ của họ. Sắc đẹp nè, sức khỏe, thọ mạng, đây là những nhu cầu thích.

Ví dụ thọ mạng là một nhu cầu, một nhu cầu đáng sợ của con người đó. Sống tới hơi thở cuối cùng vẫn sống mà. Đi bệnh viện mà mình còn nói câu “còn nước, còn tát” mà, đã đút ống vô thở bằng bình oxy, mạch không còn đập nữa, càng ngày càng yếu mà vẫn nói “còn nước còn tát” mà. Đó là sự khát khao sự sinh tồn, khát khao sự có mặt trên cuộc đời, đến hơi thở cuối cùng mà.

Cho nên ai muốn tàn độc, muốn đau khổ, nói chung là để làm khổ người khác một cách đau đớn nhất là đoạn mạng người đó. Đây là tàn ác đỉnh cao. Bởi vì biết rằng nỗi sợ hãi của con người ở điểm này cho nên tìm cách đoạn mạng người khác. Đây là sự tàn ác cay độc nhất.

Con người làm ác không có cái gì khác ngoài sự ham thích của chính mình cả. Ham thích cái gì là bắt đầu suy nghĩ đến người khác. Ngược lại ham thích là đau khổ, cho nên làm cách đó hết, người ác là bằng cách này. Cho nên người nghĩ ác là người đó hay có cuộc sống không được lương thiện và sống không có lợi ích cho cuộc đời. Một điều đương nhiên là như vậy. Còn người suốt đời làm lợi ích cho cuộc đời là không có nghĩ ác ai, và không bao giờ hãm hại ai, và rất sợ người ta đau khổ. Cái lương thiện của con người là ở chỗ: Khi mình đau khổ cái gì mình rất sợ người khác khổ như vậy.

Như vậy tiền tài, danh vọng, tất cả những cái này là những nhu cầu trong cuộc đời. Cho nên hạnh phúc tạm thời của con người nó là như vậy. Nhưng học Phật chúng ta mới biết rằng mọi thứ này tạm thời. Bởi khi mắc phải một cơn bạo bệnh xảy ra nơi đời chúng ta thôi thì sắc đẹp, tiền tài, danh vọng, thọ mạng, ước mơ, tất cả mọi thứ dường như tan nát hết. Khi bệnh nặng, tiền của mà chất cao tới đây các vị cũng không có cảm giác, vàng chất tới mũi các vị cũng không có cảm giác, thức ăn ngon, đủ thứ mà để trước mặt cũng không có cảm giác.


Vườn hoa Phật giáo
 

PhuongChau

Diễn đàn XNC
#51
Niềm vui giản đơn

Chuyện kể rằng có hai vợ chồng lớn tuổi, nghèo, và không có con. Mặc dù hoàn cảnh sống khó khăn, nhưng tánh tình họ vui vẻ, hiền hậu. Một hôm gần Tết, nhà họ chỉ có một con bò. Bà vợ nói với chồng đem con bò ra chợ bán để lấy tiền mua gạo, đường, thực phẩm để ăn Tết.


Ảnh minh họa - Nguồn: Internet

Ông chồng dẫn bò đi bán, nửa đường gặp người hàng xóm dẫn con dê. Người hàng xóm hồ hởi nói: “Bác Hai đi đâu vậy, con bò mạnh mà dẫn nó chi cho cực. Tôi đưa con dê để bác dẫn cho khỏe”. Ông già thiệt thà nghĩ người hàng xóm muốn giúp mình, nên ông bằng lòng đưa con bò cho anh ta, và lấy con dê cũng được.

Đi một đoạn đường, ông già gặp một bà ôm con ngỗng. Bà nọ hỏi: “Ông dắt con dê đi đâu vậy?”. Tôi đem dê ra chợ bán. “Ôi, ông già dẫn con dê làm chi cho mất công. Ôm con ngỗng nhẹ hều phải khỏe hơn không”. Ông cũng chịu, và đưa con dê cho bà ta, rồi ôm con ngỗng đi tiếp.

Đi một đoạn nữa, ông già gặp bà xách túi mận. Bà bảo ông đổi con ngỗng lấy túi mận ăn cho khỏe. Mận này có vitamin C tốt cho sức khỏe đó. Không chút do dự, ông chịu đổi, nhưng cũng chưa yên đâu. Vì tin đồn được lan truyền khắp nơi rằng có ông già đã đổi bò lấy dê, rồi đổi dê lấy ngỗng, và đổi ngỗng lấy mận.

Một bà nghe chuyện hấp dẫn quá, vội vàng chạy đi tìm ông già. Đến gần chợ, trời xui đất khiến sao mà bà ta gặp được ông già. Bà nghĩ lão già tốt bụng một cách khờ khạo đây rồi. Bà liền chặn ông lại, và đưa túi phân Kali cho ông với lời quảng cáo rằng phân này bón vô cây gì cũng tốt. Thế là ông già lại đổi túi mận lấy túi phân Kali.

Sau đó, ông già ôm túi phân Kali vô quán uống nước. Hai ông nhà giàu ngồi gần ông già liền bắt chuyện. Ông già kể lại cuộc trao đổi của ông từ nhà đến chợ, bắt đầu là con bò đổi một hồi, bây giờ thì có túi phân Kali. Hai ông kia nghe câu chuyện phá lên cười, nghĩ rằng chưa có ai “thần kinh” như lão già này; cam đoan về nhà sẽ bị vợ chửi.

Hai ông bèn nói với ông già rằng nếu ông về nhà kể lại chuyện đổi con bò như vậy, mà ông không bị bà vợ chửi thì họ sẽ đưa cho ông mười lượng vàng. Sau đó, hai ông này hăm hở đi theo ông già về nhà, chắc mẩm là sẽ được chứng kiến một trận chiến vô cùng ngoạn mục giữa hai vợ chồng già.

Khi ông chồng bước vô nhà, bà vợ hỏi chuyện buôn bán con bò ra sao rồi. Ông chậm rãi kể mình đã đổi con bò lấy con dê. Bà vợ thản nhiên đáp: “Đổi bò lấy dê hả. Cũng được, mỗi ngày tôi sẽ lấy sữa dê cho ông uống cũng bổ”.

Nhưng tôi đã đổi con dê lấy con ngỗng rồi, ông chồng nói tiếp. Bà vợ tỉnh bơ trả lời: “Ồ, con ngỗng cũng tốt, mình sẽ có trứng ngỗng ăn, và lấy lông ngỗng làm gối cũng tốt”.

Nhưng mà tôi đã đổi con ngỗng lấy túi mận, ông chồng thản nhiên nói. Lần này bà vợ vui vẻ thốt lên: “Vậy sao, tui đang thèm mận đây. Ông thiệt là tài, biết đem về quả mận mà vợ đang muốn ăn”.

Nhưng bà ơi, tôi đã đổi túi mận lấy túi phân Kali rồi, bà chịu không? Bà vợ trả lời tỉnh khô: “Không sao, đổi lấy túi phân Kali cũng được thôi. Đưa túi phân đây để tôi ra vườn bón bắp cải. Tết làm dưa cho ông ăn nhe!”.

Hai ông đi theo chưng hửng đến lé mắt, vì chưa bao giờ họ thấy trên đời này lại có một bà vợ đối trước tình huống thê thảm do ông chồng gây ra mà không chửi ổng. Chẳng những bà này không tiếc của, không nổi giận, không xổ ra những lời lẽ thô bỉ với chồng, mà còn bình tĩnh, vui vẻ chấp nhận giải pháp của ông chồng đã đổi con bò, tài sản duy nhất trong nhà đến bốn lần, mà điều tệ hại là mỗi lần trao đổi thì giá trị của món hàng nhận được lại tụt xuống thấp hơn nữa.

Ni sư Như Đức trụ trì thiền viện Viên Chiếu với cách kể chuyện có duyên đã khiến tôi nhớ hoài chuyện này. Chuyện chỉ có tính cách ẩn dụ nhằm nhắc chúng ta nên vui sống với những gì hiện tại trong tầm tay mình. Khởi tâm muốn khác, muốn việc tốt hơn, trong khi những thành quả mà chúng ta “được”, hay “bị gánh chịu” trong cuộc sống này đều tùy thuộc ở phước báo, và nghiệp lực của mình. Cho nên muốn khác, hay khởi tham vọng, xa rời thực tế chỉ khiến ta chuốc lấy phiền muộn mà thôi.

Nghe chuyện ẩn dụ rồi trở lại, nghĩ về mình, xem có thực sự vui sống với hiện tại hay không. Riêng tôi đang ở cái tuổi mà người ta thường nói là xưa nay hiếm có, và lại độc thân, sống một mình. Vì vậy, bài học vui sống với cái hiện tại mà tôi đang áp dụng cho mình hàng ngày là “Hãy vui lên đi! Vui với cái thân già, vui với cái thân bệnh, vui được tự do chăm sóc mình. Hì hì!!”.

Nói vui thì hơi quá lố, chứ thiệt tình hàng ngày tôi vẫn chấp nhận một cách tự nhiên cuộc sống của người già, người bệnh sống một mình. Mà không chấp nhận sao được. Vì trước khi xuất hiện trên cõi nhân gian này, tôi đã ký kết một hợp đồng với điều khoản quy định rõ ràng là hễ mang thân người, thì phải chịu sự già nua, bệnh tật hoành hành thể xác một cách không khoan nhượng trong từng phút giây. Và cuối cùng, thân tứ đại của bất cứ người nào cũng phải chấm dứt, và chấm dứt bất cứ lúc nào không cần mình chịu hay không.

Dù lúc sống có hét ra lửa thì đến hồi nhắm mắt xuôi tay, cũng phải ra đi với hai tay không, và nhất là bị sợi dây thừng nghiệp báo siết chặt, lôi đi. Mà có oan ức gì đâu, vì cái sợi dây thừng nghiệp báo đó do mình tự kết lại từ vô thỉ kiếp, rồi tự đeo dính chặt vô mình, rồi tự khổ với nó, chứ có ai xen vô đâu. Cái nghiệp chi phối cuộc sống con người một cách chặt chẽ được kinh Pháp hoa ví như là cái đuôi của con trâu dính liền với con trâu.

Có người hỏi tôi sống một mình có ớn không, có sợ ma không, có buồn không, bệnh hoạn thì sao… Buồn hả? Lỡ buồn, tôi thường quán nhân duyên giúp mình vui vẻ chấp nhận nghiệp quả để tên giặc buồn không có lý do ở lâu bên mình. Tôi nghĩ mình đã ký tên một cái rẹt vô hợp đồng đi tái sanh làm người ở chốn nhân gian với nghiệp quả như vậy rồi, cho nên không được quyền thắc mắc gì cả.

Hễ bệnh thì đi bác sĩ, phải uống thuốc hay bị giải phẫu đau đớn, ráng chịu, hoặc trời trở lạnh cũng nhức xương khớp, thì lấy dầu nóng xức vô. Còn trời nóng quá thân nhiệt không thích nghi kịp, bị cảm mạo sụt sịt thì tự nấu nước lá xông hơi, không có lá xông thì đổ dầu nóng vô nước sôi rồi hít thở cho “phẻ”. Đơn giản vậy thôi.

Tuy nhiên, ngẫm nghĩ cho cùng, công bằng mà nói, cái thân tứ đại tuy có bức ngặt thân tâm, nhưng nó cũng giúp ích cho chúng ta rất nhiều. Thật vậy, Đức Phật đã dạy rằng con người là số một trong các loài, và chỉ có con người mới có thể tiến tu đến quả vị Vô thượng Đẳng giác. Vì vậy, được làm người là điều phước báo lớn, và tuyệt vời hơn nữa, được hiểu biết và thể nghiệm Phật pháp trong cuộc sống hàng ngày giúp chúng ta thăng hoa trí giác, nuôi lớn tâm từ bi, phát triển đạo hạnh trong cuộc sống này.

Vì vậy, dù có bị bức ngặt của thân tứ đại, tôi vẫn giữ vững thời khóa công phu. Một mình thì tu kiểu một mình. Bệnh thì tu theo kiểu bệnh. Già thì tu theo kiểu già. Có lúc bệnh còn tu “gắt” hơn, vì nghĩ thời gian ở cõi hồng trần này đang bị rút ngắn lại. Và quen sống một mình, có lẽ ra đi dễ dàng hơn, chẳng bị vấn vương, dính mắc với ai. Dù sao, nói đi thì phải nói lại, cỗ xe tứ đại khiếm khuyết, bất toàn này cũng được việc cho tôi rất nhiều chứ bộ.

Thôi thì trông lên không bằng ai, nhưng nhìn xuống thì còn sướng chán! Không còn gì hạnh phúc hơn là mỗi ngày được sống trong nhà Diệu Pháp, được làm việc đạo, được minh sư dìu dắt, được những thiện tri thức đồng hạnh đồng nguyện thương mến, giúp đỡ. Còn những chuyện khác thì vứt bỏ cho nhẹ lòng, đeo mang chi cho mệt, nhờ vậy nên cũng đỡ khổ tâm, đỡ nhức đầu, đỡ nhói tim…!

Xuân đến, kính chúc tất cả người con Phật thêm một tuổi đời thêm nhiều niềm vui cho mình, cho người, lúc nào cũng nở nụ cười từ bi hỷ xả của Đức Di Lặc, hằng vững chãi trên con đường Bồ-tát hạnh, thường vui san sẻ yêu thương, hiểu biết cho người hữu duyên trong cõi sống tạm bợ này nhưng vô cùng quý giá, mà chúng ta may mắn có được thân người và được tu học trong Chánh pháp với quyến thuộc Bồ đề, và minh sư chỉ dạy.


Vườn hoa Phật giáo
 

PhuongChau

Diễn đàn XNC
#52
Thảnh thơi trong ràng buộc

Nhu yếu của con người là mong sao cho đời sống của mình luôn luôn được thảnh thơi, an vui và hạnh phúc. Để đạt được mục đích đó, con người cần phải cố gắng, nỗ lực suy tính, và vạch ra nhiều phương cách nhằm đáp ứng thỏa mãn các nhu cầu của cuộc sống.


Làm gì để cuộc sống trở nên thảnh thơi

Nhu yếu của con người là mong sao cho đời sống của mình luôn luôn được thảnh thơi, an vui, và hạnh phúc. Để đạt được mục đích đó, con người cần phải cố gắng, nỗ lực suy tính và vạch ra nhiều phương cách nhằm đáp ứng thỏa mãn các nhu cầu của cuộc sống. Tuy nhiên, thực tế cho thấy ít ai có thể thực hiện được điều này, vì mỗi khi trong tâm ta vẫn còn hiện hữu sự tham vọng cầu toàn, và cố tránh né những gì bất như ý xảy ra, thì đỉnh cao của thảnh thơi, và hạnh phúc sẽ vắng mặt, ẩn tàng.

Bởi lẽ, khi chúng ta hiện hữu trên cõi đời này thì đương nhiên phải có nhiều mối quan hệ qua lại, nào là cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, bạn bè, công việc… không một ai có thế tồn tại riêng lẻ, biệt lập. Và khi mối tương quan này hình thành thì dĩ nhiên con người sẽ bị ràng buộc trong sự thương ghét, lựa chọn, và chiếm hữu.

Cha mẹ luôn bênh vực cho con cái, anh sẽ bênh vực cho em, vợ phải bênh vực cho chồng… vì người này là thân thuộc của tôi, còn người kia là kẻ xa lạ, cho nên, dù biết người thân của mình sai phạm nhưng vẫn dùng lời lẽ, và uy quyền để giành được phần hơn. Nhưng, nếu chẳng may trong sự tranh giành ấy bạn bị thất bại thì sao?

Thì chắc chắn rằng bạn sẽ bị sợi dây phiền não trói buộc, giam giữ và mất hết quyền tự chủ. Do vậy, để được tự tại, thảnh thơi trong mối liên hệ chằng chịt đó là vấn đề không phải ai ai cũng có thể thực hiện được, đòi hỏi chúng ta phải thường trực quán niệm, soi chiếu thân tâm mình và hoàn cảnh đương tại, mới có thể thoát ra khỏi mọi xiềng xích giam giữ của bản ngã tham sân si.

Thực ra, để có một lối sống thảnh thơi, an lạc không nhất thiết ta phải đạt được một mục đích nào đó, lại càng không thể tránh xa những con người “khó ưa” để được yên ổn mọi bề, mà là giáp mặt với thực tại để thấy ra thói quen chống cự, ưa thích của cái ta tham vọng cầu toàn. Vì, chính thái độ chọn lựa, cầu toàn là đầu mối làm hoang phí sinh lực và đánh mất khả năng giác ngộ, giải thoát.

Nếu bạn có ý niệm truy tìm sự thảnh thơi thì vô tình chính ý niệm ấy lại là thủ phạm tạo ra sự xao động, rối ren và bất an, chẳng khác gì có một người đi ra ngoài phố chợ rồi la lớn rằng: “tất cả mọi người hãy im lặng, tất cả mọi người hãy im lặng!” Hành động khờ khạo ấy không khiến cho những người ở phố chợ lặng im mà trái lại còn tạo thêm sự ồn ào, và hao phí sinh lực.

Trong khi đó, bạn chỉ cần nhận biết rõ ràng mọi động dụng lăng xăng tìm cầu đang diễn ra ở nơi thân tâm mình, mà không cần phải chống đối, trừ khử thì niềm an vui hạnh phúc tức thời hiện hữu. Đây chính là kinh nghiệm mà Đức Thế Tôn đã thực chứng, và chỉ dạy lại cho chúng đệ tử rằng:

Này các vị khất sĩ! Mỗi khi nội tâm có tham dục, vị khất sĩ ấy ý thức là nội tâm có tham dục. Mỗi khi nội tâm không có tham dục, vị ấy ý thức là nội tâm không có tham dục.

Mỗi khi trong tâm có sân hận, vị khất sĩ ấy ý thức là trong tâm có sân hận. Mỗi khi trong tâm không có sân hận, vị ấy ý thức là trong tâm không có sân hận.

Mỗi khi tâm thức mình si mê, vị ấy ý thức rằng tâm thức mình si mê. Mỗi khi tâm thức mình không si mê, vị ấy ý thức rằng tâm thức mình không si mê. Mỗi khi tâm thức mình có thu nhiếp, vị ấy ý thức rằng tâm thức có thu nhiếp. Mỗi khi tâm thức mình tán loạn, vị ấy ý thức rằng tâm thức mình tán loạn… Và như vậy, vị ấy an trú một cách tự do, không bị bất cứ một thứ gì trong cuộc đời làm vướng bận.
(Kinh Bốn lĩnh vực quán niệm, Nhật tụng thiền môn năm 2000, Thiền sư Nhất Hạnh soạn dịch, tr.l13).

Các sự vật hiện tượng trong vũ trụ này vốn không ràng buộc vào nhau, mà chỉ liên hệ trong sự tương giao, hội tụ, và đổi thay như đám mây bay lơ lửng trên bầu trời, khi đầy đủ điều kiện thì trở thành cơn mưa, dòng sông, con suối đến khi hết nhân duyên thì chúng chuyển sang tướng trạng khác nhau, và vẫn thong dong từng cá thể.

Chính vì ta sống trong thất niệm mê mờ và không thấy rõ tính duyên sinh vô ngã của vạn pháp, nên bị bản ngã tham sân si điều động, sai sử rồi tạo ra sự rối ren, phân chia, và chọn lựa. Trong khi đó, bản chất của các pháp vốn tự do bình đẳng, và luôn luôn vận hành đúng theo tiến trình nhân-duyên-quả mà tự thân của mỗi người đã tạo ra trước đó.

Vì vậy, đoạn kinh trên chỉ dẫn rằng, khi trong tâm thức khởi lên một niệm sân hận hoặc là niệm hoan hỷ, thì bạn chỉ cần nhận biết trọn vẹn quá trình sinh khởi, và hoại diệt của ý niệm ấy mà không chạy theo, nắm giữ hay tiếc nuối. Thói quen muốn được thỏa mãn các giác quan (dục ái) và nắm giữ những gì mình ưa thích (hữu ái) là sợi dây trói buộc ta vào vòng lục đạo luân hồi. Vì một khi ý niệm mong cầu đó không được đáp ứng, thì tâm trạng bực bội phiền muộn tức thời hiện hữu (phi hữu ái), tạo ra sự xung đột đấu tranh và hận thù. Chính vì lẽ đó cho nên Đức Thế Tôn dạy rằng:

Này Hiền giả, không đứng lại, không bước tới, Ta vượt khỏi bộc lưu. Thưa Tôn giả, làm sao không đứng lại, không bước tới, Ngài vượt khỏi bộc lưu? Này Hiền giả, khi Ta đứng lại, thời Ta chìm xuống; khi Ta bước tới, thời Ta trôi giạt. Do vậy, này Hiền giả, không đứng lại, không bước tới, Ta vượt khỏi bộc lưu.
(Kinh Tương Ưng Bộ I,tr.9)

Bước tới là chạy theo dục lạc tham muốn, còn đứng lại là nắm giữ, sở hữu cái mình ưa thích. Theo tuệ giác của Đức Thế Tôn cho thấy, nếu ta bước tới hoặc đứng lại đều bị rơi vào cạm bẫy của vô minh tham ái. Chỉ có tâm định tĩnh sáng suốt mới dễ dàng ung dung tự tại để ngắm nhìn vẻ đẹp của cơn giận, lòng tham, và nỗi buồn đang biểu hiện. Nếu bạn quán chiếu được điều này thì ý niệm mong cầu để trở thành một cái gì đó trong tương lai sẽ tự động rơi rụng.

Vì bạn đã hiểu được rằng, niềm an lạc, thảnh thơi không thể dùng ý chí hay lý trí để phá vỡ công trình tạo dựng ngàn đời của bản ngã, mà chỉ cần thấy rõ quy trình dựng lập của nó thì bạn sẽ tự do dạo chơi qua lại trong cõi sanh tử và Niết-bàn.

Tuy vậy, khát vọng phàm tình của kiếp người vẫn là mong ước được sống chung với những người hiền hòa dễ mến, và có một lối sống đầy đủ điều kiện thuận lợi để được an hưởng hạnh phúc lâu dài. Nhưng kỳ thực, không ai có thể tìm ra một con người hoàn hảo, và với công việc thuận lợi êm xuôi, vì khi trong tâm thức ta vẫn còn chứa đựng sự thèm khát mong cầu thì cái thấy về con người, về hoàn cảnh xã hội sẽ bị phiến diện hạn hẹp, do đó ta không bao giờ thỏa mãn được những ước vọng cầu toàn.

Mặt khác, chính vì muốn sở hữu “cái này là của tôi” nên khi bị người khác chiếm đoạt thì tâm sân hận phát khởi và làm che mờ cái thấy biết trong sáng, hồn nhiên và trung thực. Và một khi tâm đã mang nặng nỗi buồn, cơn giận thì ta không thể nào tiếp xúc được các vẻ đẹp của thiên nhiên đồi núi, vẻ đẹp lúc mặt trời sắp ló dạng ở buổi ban mai, vẻ đẹp của bầy chim đang ríu rít bay nhảy trước sân nhà, vẻ đẹp hồn nhiên của lũ trẻ con đang nô đùa trong nắng sớm… cuộc sống vốn có rất nhiều cái hay, cái đẹp nhưng người biết cảm nhận và thừa hưởng thì quả thật quá hiếm hoi!

Vậy thì, chúng ta phải làm thế nào để đạt được tự do, và hạnh phúc ngay trong cuộc đời này? Xin thưa, chính ý niệm “phải làm thế nào” lại là thái độ lăng xăng khẩn trương của bản ngã bày vẽ ra.

Đơn giản, bạn chỉ cần thấy rõ các trạng thái xao động sinh diệt ấy thôi, không cần phải thêm thắt điều gì nữa cả, mọi hoạt động của thân tâm diễn ra như thế nào thì bạn nhận biết trọn vẹn y như thế đó. Hay nói cách khác, bạn sống tùy thuận theo dòng chảy của nhân duyên nghiệp quả mà không kháng cự, loại trừ, thêm bớt… thì ngay khi ấy bạn được tự do, tự tại.

Để từng bước vượt thoát mọi buộc ràng, và thiết lập một lối sống thảnh thơi an lạc, không gì hơn bạn cần phải thân cận, học hỏi với các bậc minh sư phạm hạnh. Nhờ vào năng lượng vững chãi, bình an của vị thầy sẽ giúp cho bạn dần dần khai sáng tâm tư, và từ đó bạn phát huy được cái nhìn trong sáng, hồn nhiên, và trung thực. Bởi lẽ, thảnh thơi an lạc hay ràng buộc khổ đau không hẳn là do hoàn cảnh từ bên ngoài tạo ra, mà nó tùy thuộc vào cách nhìn nhận ở nơi bạn, và nơi tôi.


Vườn hoa Phật giáo
 

PhuongChau

Diễn đàn XNC
#53
Đi tìm tình thương yêu đích thực

Nhu yếu của con người là mong muốn tìm ra được người mình yêu thương, và được kẻ khác đáp lại tình thương ấy một cách chân thật, thủy chung. Nếu con người sống trên cõi đời này mà thiếu vắng tình thương yêu thì kể như vô vị, chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Do đó, đi tìm đối tượng phù hợp về lối sống, và tính cách để được thương yêu chăm sóc sớm chiều là vấn đề vô cùng trọng đại, ít ai có thể lơ là, buông trôi!


Hãy trân trọng người bạn thương yêu

Nhu yếu của con người là mong muốn tìm ra được người mình yêu thương, và được kẻ khác đáp lại tình thương ấy một cách chân thật, thủy chung. Nếu con người sống trên cõi đời này mà thiếu vắng tình thương yêu thì kể như vô vị, chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Do đó, đi tìm đối tượng phù hợp về lối sống, và tính cách để được thương yêu chăm sóc sớm chiều là vấn đề vô cùng trọng đại, ít ai có thể lơ là, buông trôi!

Người thương, không hẳn là người xinh đẹp hoặc có bằng cấp địa vị cao trong xã hội, mà chỉ cần người ấy có khả năng thấu hiểu và chấp nhận được lối sống của bạn! Nếu như bạn lỡ dại thương yêu một ai đó vì sắc đẹp, vì giàu sang quyền quý nhưng tính cách giữa hai người không mấy hợp nhau thì chẳng đem lại kết quả tốt đẹp như bạn hằng mong muốn.

Vì vậy, đi tìm được một mẫu người tương thích như ý muốn mà mình đặt ra là cả vấn đề hết sức khó khăn, vất vả. Trong thực tế, không có ai hoàn hảo cả, người được mặt này thì lại yếu kém về mặt nọ, hay nói cách khác bản chất của mỗi con người đều có các đức tính tốt đẹp, và xen tạp những ý niệm xấu xa khó lường.

Nếu trong hiện tại chúng ta không biết tu tập quy chiếu lại chính mình, thì những hạt giống phiền não tiêu cực kia sẽ dễ dàng phát khởi, và xâm chiếm tâm hồn. Cũng chính vì lẽ đó cho nên Đức Thế Tôn dạy rằng:

Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỳ- kheo, đưa đến bất lợi lớn, này các Tỳ-kheo, như tâm không được điều phục. Tâm không được điều phục, này các Tỳ-kheo, đưa đến bất lợi lớn. Và ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỳ-kheo, đưa đến lợi ích lớn, này các Tỳ- kheo, như tâm được điều phục. Tâm được điều phục, này các Tỳ-kheo, đưa đến lợi ích lớn.
(Kinh Tăng Chi Bộ,chương I, phẩm Không điều phục),

Thật rõ ràng, nếu chúng ta không biết cách nhận diện, điều phục, và làm chủ được tâm ý mình, thì mọi hành động, nói năng ứng xử trong cuộc sống sẽ tùy thuộc vào cái ta tham ái chấp thủ, và dĩ nhiên là đưa tới bất lợi, khổ đau.

Ngược lại, khi một người thường trực quán sát thân tâm và chuyển hóa được các ý niệm tiêu cực xấu ác thì mỗi việc làm của họ đều đem lại lợi ích an vui cho cuộc đời. Do đó, phẩm chất toàn hảo của con người được biểu hiện trọn vẹn hay không là tùy vào việc tu niệm của mỗi người ngay trong đời sống hiện tại.

Vậy thì, bạn muốn đi tìm mẫu người lý tưởng để thương yêu và được cùng nhau chia sẻ ngọt bùi, nhưng trong khi đó tâm ý tham vọng chấp ngã của bạn chưa được điều phục, liệu tình thương yêu ấy có đem lại hạnh phúc toàn vẹn hay không? Bởi lẽ, khi chung sống với một người không mấy phù hợp thì bạn sẽ tìm cách tránh né, loại bỏ để đi tìm đối tượng khác, đến khi chọn lựa được người dễ thương xinh đẹp thì bạn lại lo lắng sợ mất, và tìm đủ mọi phương cách để chiếm giữ.

Như thế, cả hai trường hợp trên đều khiến cho bạn bất an và khổ sở! Mặt khác, mọi thứ trên cuộc đời này luôn luôn thay đổi, không có gì thực sự tồn tại lâu dài. Thân tâm của chúng ta sinh diệt biến đổi trong từng giây, từng phút cho nên mới dẫn đến sự già nua và tật bệnh.

Hoàn cảnh cuộc sống cũng vô thường không khác, có người giàu sang sung sướng rồi lại nghèo khổ túng thiếu, những mối tình tan vỡ chia cách vẫn thường xuyên hiện hữu, và sự kiện sóng thần, động đất, bão lụt xảy ra khắp nơi không ai có thể lường trước hết được. Sự thật của đời sống này là như thế, cho nên dù bạn cố công gìn giữ , níu kéo để cho tình yêu mãi mãi sắc son bền vững thì cũng không thể được. Vì vậy, khi chúng ta nhận thức được điều này thì cho dù gặp bất cứ sự việc gì xảy ra cũng không khiến cho ta phải ngỡ ngàng, và sầu khổ.

Thực ra, người thương chỉ có mặt khi bạn biết buông xuống cái ta lăng xăng tìm cầu, chọn lựa cái này hoặc loại trừ cái kia, hay nói cách khác khi trong tâm bạn hoàn toàn vắng bóng cái ta phân biệt, kỳ thị thân sơ thì bạn dễ dàng mở lòng thương yêu tất cả mọi người. Bởi vì, bản chất của các pháp vốn bình đẳng, trong sáng không có sự phân chia tốt xấu, hay dở chỉ vì chúng ta sống trong thất niệm mê lầm, không thấy rõ thực tánh tự nhiên của các pháp nên mới tạo ra chuỗi dài sầu, bi, khổ, ưu não… Vì lẽ đó, cho nên khi Huệ Năng nghe được câu kinh “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm “(Kinh Kim Cang) thì ngài thốt lên rằng:

Hà kỳ tự tánh bổn tự thanh tịnh,
Hà kỳ tự tánh bổn bất sanh diệt,
Hà kỳ tự tánh bổn tự cụ túc,
Hà kỳ tự tánh bổn vô động diêu,
Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp.

Dịch nghĩa:
Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh ,
Đâu ngờ tự tánh vốn không sanh diệt,
Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,
Đâu ngờ tự tánh vốn không dao động,
Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp.
(Kinh pháp Bảo Đàn).

Theo tuệ giác của ngài Huệ Năng thì các pháp vốn đã hoàn chỉnh, chúng luôn luôn vận hành đúng với nhân quả tội phước mà ta đã tạo ra trong hiện tại. Mọi sự vật hiện tượng luôn luôn biến đổi, không có cái gì thực sự đứng yên lại một chỗ. Dòng sông, đám mây, cơn mưa, cây cỏ, ánh nắng mặt trời… chúng có mặt trong nhau, làm nên nhau, và không có một cái ta riêng biệt độc lập, cũng chẳng có đối tượng để cho cái ta bám víu trụ chấp.

Hay nói cách khác, khi tâm thức của bạn không cấu tạo nên chủ thể (cái ta) thì đối tượng (của ta) cũng không hiện hữu và như thế bạn sẽ ung dung tự tại sống “tùy duyên thuận pháp” vô ngã vị tha.

Để được như thế, bạn chỉ cần có mặt trọn vẹn với những gì mà mình đang tiếp xúc, buông xuống thói quen phản ứng định đoạt để tùy thuận theo tiến trình diễn biến của thực tại đang là.

Mỗi khi bản ngã tham sân si không còn hiệu lực chi phối lên đời sống, lúc bấy giờ khả năng chấp nhận, và thương yêu của bạn mới thực sự trọn vẹn, vượt ra khỏi ranh giới chọn lựa lấy bỏ. Và nhờ đó, bạn không cần phải bỏ công sức để đi tìm người thương ở đâu cả, vì ở nơi bạn đã sẵn có tình thương yêu đích thực.

Trong thực tế, khi bạn muốn thương yêu một ai đó, trước hết bạn phải biết thương lấy chính mình. Nếu bạn không biết thương yêu chăm sóc thân tâm của mình cho lành mạnh, trong sáng thì làm sao bạn có thể thấu hiểu và cảm thông đối với những người khác? Ví dụ, khi người nào đó nói về bạn một câu hơi nặng lời, nếu giây phút ấy bạn thiếu khả năng trầm tĩnh, sáng suốt để thấy rõ nguyên nhân của sự việc xảy ra thì bạn sẽ phản ứng bằng sự bực bội hoặc chạy trốn hiện thực.

Và như thế, bạn không thể trải nghiệm được những bài học thiết thực từ cuộc sống, nên khả năng chấp nhận, và lòng thương yêu của bạn đối với mọi người chung quanh sẽ bị hạn hẹp. Vì vậy cho nên, trở về với chính mình, chuyển hóa những hạt giống xấu trở thành tốt, làm tươi mát vườn tâm của mình là vấn đề chính yếu cần phải thực thi để cho vườn tâm tuệ giác trong ta được dễ dàng biểu hiện.

Thiết nghĩ, niềm khát vọng của con người là muốn được một ai đó thấu hiểu, cảm thông, và sớm hôm cùng nhau chia sẻ tâm tình là vấn đề hết sức quan trọng không thể thiếu.

Tuy nhiên, lòng mong ước này chỉ được thành tựu khi bạn biết chấp nhận những yếu kém của kẻ khác, và đặc biệt buông xuống cái ta, và cái của ta thì tình thương yêu chân thực tức thời hiện hữu.

Hơn hết, bạn không cần phải chờ đợi hay là tìm cầu người thương ở đâu cả, bởi vì sự có mặt của người thương chỉ tùy thuộc vào thái độ sống tỉnh thức trọn vẹn của bạn ngay tại đây, và bây giờ.


Vườn hoa Phật giáo
 

PhuongChau

Diễn đàn XNC
#54
Sống tử tế với nhau

Mọi thứ hiện hữu trên cuộc đời này đều luôn luôn thay hình đổi dạng; từ hoàn cảnh sống cho đến thân tâm của chúng ta sinh diệt, và biến đổi trong từng giây từng phút. Chính sự đổi thay này đã khiến cho những ai chưa có cơ hội tỏ bày lòng biết ơn của mình đối với ân nhân, và chưa kịp sống tử tế với nhau thì sẽ cưu mang niềm tiếc thương, sầu muộn khi biết được người thân yêu đã vắng bóng, xa lìa!


Người tử tế luôn chủ động, tìm kiếm các việc nghĩa để góp phần phụng sự tha nhân, xây dựng cuộc sống này ngày càng tốt đẹp hơn

Để không tạo ra sự hối tiếc, hụt hẫng về sau, ta cần phải sống cho tử tế, và hết lòng quý mến nhau trong thời điểm hiện tại, không nên chờ đợi, hứa hẹn sẽ làm điều gì đó ở tương lai.

Sống tử tế là một trong những đức tính cao quý và cần thiết, nhằm giúp cho các mối quan hệ xóm giềng, thân hữu được dễ dàng hiểu, và thương kính nhau nhiều hơn. Sống tử tế chính là thái độ ứng xử bằng cái tâm trung thực, thủy chung “trước sau như một”, đồng thời lối sống này là yếu tố then chốt để tạo ra niềm tin vững chắc giữa các mối quan hệ kinh tế đa phương.

Vì sự trong sáng và chân thật của mỗi cá nhân là góp phần xây dựng nên một doanh nghiệp có uy tín, có chất lượng, thể hiện nếp sống văn minh tiến bộ, và dĩ nhiên sẽ được mọi người tín nhiệm, hưởng ứng cũng như quan tâm hỗ trợ.

Đối với tình cảm bạn bè đôi lứa cũng vậy, nếu chàng thanh niên có đức tính thủy chung, chân thật, và trong sáng thì chắc chắn người con gái sẽ đem lòng quý mến, và hết mực thương yêu!

Ngược lại, nếu một ai đó sống hờ hững, xao lãng và không thật lòng với nhau, “nói một đàng, làm một nẻo” thì sớm muộn gì cũng bị mọi người phát hiện ra, và như vậy sẽ không ai dám tin tưởng để hợp tác quan hệ. Do đó, sống cho tử tế với nhau chính là điều kiện căn bản để mọi người đặt trọn niềm tin, và giao hảo thân thiện đối với mình.

Thực tế cho thấy, xã hội ngày nay đời sống vật chất lên cao, sung túc nhưng ngược lại nhân cách đạo đức của con người thì bị suy thoái trầm trọng! Có không ít người vướng vào các tệ nạn lừa đảo, ma túy, trộm cướp… báo chí đăng tải mỗi ngày đến mức báo động, thậm chí họ còn len lỏi vào trong chốn chùa chiền để mưu mô, lừa gạt.

Từ thực trạng tiêu cực này đã khiến cho con người khó tin tưởng lẫn nhau, và luôn luôn tạo ra sự phòng hộ, đắn đo, suy tính kỹ lưỡng trong mối quan hệ giao thiệp. Vậy thì những tệ nạn này do đâu mà có? Và nếu trong tâm mỗi người còn hiện hữu các yếu tố tiêu cực này, thì thử hỏi chúng ta có thể tự do hạnh phúc được hay không?

Chắc chắn rằng, khi các tệ nạn này có mặt thì con người sẽ phải đối diện với nhiều cay đắng khổ đau, cho nên không một ai dại khờ mong muốn những điều tệ hại này xảy ra cả.

Thực chất, nếu chúng ta biết bình tâm để suy nghiệm cho thấu đáo thì sẽ thấy rõ nguyên nhân chính yếu là do con người thiếu sự sáng suốt, và không làm chủ được tâm ý nên mới trở thành lối sống bê tha, yếu kém gây ảnh hưởng xấu đến cho gia đình, và cho cộng đồng xã hội.

Tâm ý của con người được ví như con khỉ chuyền cành, như con ngựa chạy hoang không tuân thủ theo người điều khiển cho nên cần phải có một sợi dây cương để buộc chúng lại. Cũng vậy, nếu như ta không biết cách chuyển hóa, và điều phục tâm ý của mình thì toàn bộ hành động, lời nói thể hiện trong đời sống hàng ngày sẽ dễ dàng tạo ra các tội lỗi xấu xa đáng tiếc. Chính vì lẽ đó cho nên Đức Thế Tôn dạy rằng:

Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ ý tạo
Nếu với ý ô nhiễm
Nói lên hay hành động Khổ não bước theo sau Như xe chân vật kéo.

Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh
Nói lên hay hành động
An lạc bước theo sau
Như bóng, không rời hình
(Kinh Pháp Cú, câu 1 và 2).

Thật rõ ràng, lời nói và hành động, chỉ là công cụ để cho tâm ý vẽ vời điều khiển. Nếu với ý nghĩ bất thiện, nhiễm ô thì hệ quả chắc chắn sẽ có mặt ngay sau đó, “như bánh xe lăn theo chân con vật". Ngược lại, khi tâm ý sáng suốt, trong lành thì niềm an lạc giải thoát tức thời hiện hữu “như bóng không rời hình”. Bởi thế cho nên, nhận diện tâm, điều phục tâm là điều kiện tất yếu để khai mở tuệ giác vốn có trong mỗi chúng ta, và cuộc đời này có an vui hạnh phúc, hay không là tùy thuộc sự hiểu biết của mỗi con người.

Nếu bạn có cái nhìn khách quan, trong sáng và biết tùy thuận, theo chuỗi vận hành của nhân-duyên-quả thì tâm hồn sẽ được an ổn tự tại. Bởi mọi thứ đã vận hành đúng cả rồi, chỉ tại ta muốn làm theo ý mình nên mới có đau khổ, việc cần làm chính là cái tâm của bạn luôn luôn định tĩnh, và sáng suốt. Vì tâm đã được an tịnh trong sáng thì khi tiếp xúc với bất cứ hạng người nào bạn cũng dễ dàng nhận biết được tính cách và lối sống của họ để từ đó sự cảm thông, lòng thương yêu có mặt.

Bên cạnh đó, phong thái ung dung và tự tại của bạn cũng có khả năng đánh tan dòng tâm ý phòng thủ, và nghi ngờ ở nơi họ, tạo ra mối quan hệ thâm tình gần gũi. Thế nên, chúng ta sống có hạnh phúc hay không, xã hội này có được đổi thay tốt đẹp hay không là tùy thuộc vào cái nhìn sâu sắc, và thái độ hành xử nhẹ nhàng tử tế chính nơi mỗi người.

Tuổi thọ của loài người chỉ tồn tại trong vòng mấy mươi năm, và mạng sống cũng rất mong manh giả tạm, không ai biết chắc rằng mình sẽ sống được bao lâu trên cõi đời này. Ấy vậy, mà chúng ta cứ mãi đề phòng, lo âu và nghi kị, không chịu đem cái tâm chân thật ra để ứng xử với nhau, sống tốt đẹp với nhau thì thật là uổng phí biết bao nhiêu!

Có lẽ chính vì trải nghiệm được điều này cho nên nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mới nhắn gửi rằng: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không?” (Để gió cuốn đi),và “Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ” (Mưa Hồng). Còn thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương thì nói rằng: “Lợi danh như bóng mây chìm nổi, chỉ có tình thương để đời.” (Còn gặp nhau).

Có những gia đình tuy của cải dư thừa, vật chất sung mãn nhưng ngược lại tình nghĩa cha con, chồng vợ thì nhạt nhẽo khô khan, và trong lòng của họ luôn mang nặng nỗi niềm khốn khổ, bất an! Bởi họ quá coi trọng về tiền tài, và danh vọng nên không có đủ thì giờ ngồi lại bên nhau để lắng nghe, để hiểu, và để sống trọn vẹn với người thân yêu.

Trong khi đó, danh lợi có tính cách hư ảo “như bóng mây chìm nổi”, chỉ có cái để lại cho cuộc đời này đó là “tình thương”. Vì khi xác thân này trở về với cát bụi thì ta không thể đem theo thứ gì cả, mà cái duy nhất đi theo với ta đó là nghiệp. Nếu hiện tại ta sống cho tử tế với nhau thì hệ quả về sau được tái sinh vào cảnh giới an lành tương ứng, còn ngược lại sẽ bị nghiệp dẫn dắt vào những nơi tối tăm đọa lạc, và khổ não triền miên.

Thiết nghĩ, nếu chúng ta trải hết tấm lòng ra để sống thì bất cứ ở nơi đâu, tiếp xúc với ai ta cũng được mọi người trân trọng, tin cậy, và quý mến! Và nếu, ta thiết lập được một lối sống tốt đẹp như thế thì mới có thể an hưởng được hạnh phúc một cách trọn vẹn cho đời sống hôm nay, và mãi mãi về sau.

Để thực hiện được điều này đòi hỏi bạn phải thường trực trở về với chính mình, tiếp xúc trọn vẹn với những gì đang diễn ra. Đơn cử, khi nâng tách trà lên uống thì bạn phải cảm nhận được hương vị thơm ngon của mỗi ngụm trà, đồng thời phải rõ biết tâm trạng phản ứng của bạn như thế nào trong khoảnh khắc ấy.

Nhờ vào thái độ trầm tĩnh và quán chiếu này sẽ giúp bạn khai mở sự thấy biết sâu sắc về bản chất thật của sự sống. Nếu trong khi uống trà, ăn bánh, hoặc chia sẻ với một ai đó mà bạn có vẻ lơ là không để tâm ý vào câu chuyện đang nói, thì khả năng hiểu biết về nhau cũng như sự thân thiết sẽ bị giới hạn.

Vì thế, thường trực quán niệm thân tâm, và tỉnh thức trọn vẹn trong mỗi giây phút hiện tại chính là điều kiện tất yếu để thiết lập một nếp sống an vui hạnh phúc, góp phần xây dựng xã hội văn minh phồn thịnh, đồng thời phát huy khả năng hiểu biết, và lòng thương yêu vô hạn vốn có trong mỗi con người.


Vườn hoa Phật giáo
 

PhuongChau

Diễn đàn XNC
#55
Tùy thuận vô thường

Vạn vật hiện hữu trên cõi đời này luôn luôn chuyển đổi từ hình dạng này sang hình dạng khác, bao gồm cả tâm – sinh lý mà mỗi con người đều có thể tự mình thấy ra sự thật ấy. Quá trình đổi thay đó gọi là vô thường, nghĩa là không có cái gì thực sự thường còn mãi mãi, mà mọi thứ chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi, và rồi tiếp diễn thay hình đổi dạng.


Biết sống trong vô thường

Vạn vật hiện hữu trên cõi đời này luôn luôn chuyển đổi từ hình dạng này sang hình dạng khác, bao gồm cả tâm-sinh lý mà mỗi con người đều có thể tự mình thấy ra sự thật ấy. Quá trình đổi thay đó gọi là vô thường, nghĩa là không có cái gì thực sự thường còn mãi mãi, mà mọi thứ chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi, và rồi tiếp diễn thay hình đổi dạng.

Do đó, Đức Thế Tôn dạy rằng: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” (Cái gì có hình tướng đều là hư ảo, tạm bợ) (Kinh Kim Cang). Tướng ở đây không chỉ đơn thuần là tướng trạng bên ngoài mà còn mang bóng dáng của dòng tâm ý dao động, phóng dật trong mỗi chúng ta. Quả thật, vì sự sống luôn luôn đổi thay không đứng yên lại một chỗ nên con người mới có thể lớn khôn, trưởng thành, và tạo dựng sự nghiệp cơ đồ.

Tuy nhiên, sự đổi thay đó đem lại khổ đau hay hạnh phúc là tùy thuộc vào thái độ sống của mỗi người ở thời điểm hiện tại. Nếu bạn biết sống thuận theo quy luật vận hành tất yếu của thiên nhiên mà không phản kháng hoặc quy ước, định đoạt theo nhận thức chủ quan của mình, thì dù mọi thứ đổi thay như thế nào đi nữa, vẫn là vẻ đẹp tuyệt vời cho bạn!

Vô thường là một thực tại sinh động và mới mẻ như dòng sông đêm ngày trôi chảy mà không ước hẹn, hoặc dừng lại bất cứ ở nơi đâu. Vạn vật nương tựa vào nhau để làm nên sự sống, nhưng lại không có cái ta quy ước ràng buộc hay tách biệt riêng lẻ. Tuy chúng biến đổi muôn hình vạn trạng khác nhau nhưng vẫn thong dong, và tùy thuận để thích ứng với mọi hoàn cảnh, điều kiện đang có mà không quy định phải là, hoặc sẽ là để cung ứng thỏa mãn cho cái ta riêng biệt.

Đời sống của con người quả là tiến trình đổi thay bất tận; thân thể ta từ khi mới sinh ra trọng lượng chỉ được vài ba cân thôi, và cứ thế năm tháng trôi qua thân thể ngày càng cao lớn, và trọng lượng tăng dần đến mấy mươi cân. Nhận thức ta cũng vậy, lúc tuổi còn trẻ thì suy nghĩ hời hợt nông cạn, đến khi khôn lớn ta được tiếp xúc với mọi người, và học ra nhiều điều từ cuộc sống nên khả năng hiểu biết cũng được thêm phần sâu sắc.

Hoàn cảnh xã hộicũng thay đổi không khác; trước đó là một vùng đất hoang sơ, trống trải nhưng nay lại trở thành khu dân cư đông đúc, nhiều công trình được xây dựng đồ sộ, nguy nga… Hoặc ngược lại, trước đây ở nơi đó là một thành phố xinh đẹp nhưng nay đã biến thành bãi rác khổng lồ bởi nạn động đất, sóng thần gây ra. Như vậy, thân tâm, và hoàn cảnh đều chuyển đổi theo thời gian, không có cái gì thực sự tồn tại lâu dài.

Chính vì lẽ đó cho nên trong Kinh Bát ĐạiNhân Giác, Đức Thế Tôn dạy rằng:

Điều thứ nhất là giác ngộ rằng cuộc đời là vô thường, mọi thứ trên thế gian này đều thay đổi, những cấu tạo của bốn đại đều trống rỗng và có tác dụng gây đau khổ, con người do tập hợp của năm ấm mà có, lại không có thực ngã, sinh diệt thay đổi không ngừng, hư ngụy, và không có chủ quyền…
(Nhật tụng thiền môn năm 2000, Thiền sư Nhất Hạnh, tr.89-90)

Con người do bốn đại là đất, nước, lửa, gió kết hợp lại mà hình thành, và có đầy đủ năm yếu tố là sắc thân, cảm thọ, tri giác, tâm hành, và nhận thức. Khi hết điều kiện nhân duyên thì con người sẽ chuyển sang một hình dạng khác. Ngày hôm nay đời sống có tốt đẹp hoặc ngày mai có tươi sáng hay không là đều tùy thuộc vào thái độ ứng xử của bạn trong thời điểm hiện tại.

Nếu hàng ngày bạn tiếp xúc, và học hỏi với các bậc hiền nhân đức độ thì nhận thức của bạn sẽ được thay đổi theo chiều hướng tích cực tươi sáng, ngược lại bạn thường tiếp cận với môi trường thiếu lành mạnh thì hạt giống bất thiện tiêu cực trong bạn sẽ có cơ hội nảy mầm, và sinh trưởng.

Vì thế, ngay trong hiện tại bạn cần phải biết thường trực quán chiếu về tính chất vô thường hư ảo của các pháp một cách sâu sắc, để thấy rõ hành tung diễn biến của “cái ta” và “sở hữu của ta“. Khi tâm hồn trong sáng và thấy rõ các pháp thì cái ta tham ái chấp thủ không có cơ hội để bám víu và hình thành sở hữu.

Căn bệnh của con người là thường ưa thích mọi việc xảy ra thuận theo ý mình mong muốn, cho nên khi sở hữu được một cái gì đó thì vui mừng hớn hở, đến lúc thiếu vắng mất mát thì lại buồn phiền khổ đau. Và như thế, hạnh phúc chỉ hiện hữu trong một thời gian ngắn ngủi ít ỏi. Chính vì cái nhìn hạn hẹp như vậy cho nên ta không có cơ hội để tiếp xúc với những vẻ đẹp kỳ diệu của thiên nhiên, đất trời. Nhiều quốc gia, mỗi năm có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông.

Và mùa nào cũng có vẻ đẹp và giá trị như nhau, tuy nhiên do cách nhìn của mỗi người sai khác nên họ cho rằng mùa này tốt đẹp hơn còn mùa kia thì tệ hại. Thực chất, nếu tâm tư bạn mang đầy dằn vặt lo âu thì bạn không thể nào tiếp xúc được với vẻ đẹp toàn diện của các pháp. Cho nên thi hào Nguyễn Du mới nói rằng: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Hoàn cảnh xưa nay vẫn diệt sinh-đến rồi đi, thời tiết thì có khi nắng khi mưa. Trời nắng có cái hay của nắng, còn trời mưa cũng có vẻ đẹp riêng của mưa. Nắng hay mưa đều là chất liệu quý giá để làm nên sự sống này, nếu thiếu vắng một trong hai thứ đó thì con người, cỏ cây, đất đá, chim muông, và cầm thú không thể tồn tại.

Vì vậy, sầu khổ là do tâm ý ta dao động, phân biệt vẽ vời hiện thực theo nhận thức chủ quan cá nhân cho nên cái đẹp tự nhiên của các pháp bị che lấp, và vắng bóng.

Thực ra, phiền não khổ đau chỉ xuất hiện khi ta ước muốn chiếm hữu, nắm giữ các đối tượng ưa thích hoặc loại trừ những gì mình không mong muốn. Các pháp diễn ra trong đời sống này luôn vận hành đúng với nhân quả tương ứng mà mỗi người tự tạo ra. Pháp vốn bình đẳng và tự do không ràng buộc hay bám trụ vào đâu cả, nhưng ngược lại con người thì đưa ra quy trình, khuôn mẫu để chọn lựa, nắm bắt. Trong khi đó, pháp luôn luôn biến đổi không ngừng làm sao ta có thể nắm giữ lại được cái gì? Cùng với ý nghĩa này, Đức Thế Tôn hỏi Rahula rằng:

– Này Rahula, ông nghĩ thế nào? Con mắt là thường hay vô thường?
– Bạch Thế Tôn, là vô thường.
– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
– Bạch Thế Tôn, là khổ.
– Cái gì vô thường, khổ, biến hoại, thờicó hợp lý chăng khi quán cái ấy:”Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?
– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.
(Kinh Trung Bộ III,tr.624).

Thật rõ ràng, vô thường đưa đến khổ đau chỉ vì ta vướng kẹt vào cái tôi và sở hữu của tôi. Mỗi khi cái thấy không được trong sáng (vô minh) thì bạn sẽ không thể sống tùy thuận vô thường mà chỉ muốn chọn lựa, nắm giữ những gì tốt đẹp, và mong nó thường còn mãi mãi nên hệ quả là dẫn đến bất toại khổ đau.

Trong khi đó, vô thường là diễn biến của pháp không như mình cho là, quy định phải là hay mong ước sẽ là. Vì vậy vô thường làm cho cái ta ảo tưởng không thể nào toại nguyện nên ta thấy khổ. Khổ là do lăng xăng tạo tác nên không thấy được vô thường. Nếu không có cái ta ảo tưởng luôn cho là, quy định phải là hay mong ước là thì vô thường là bản chất tự nhiên của pháp không đem đến đau khổ. Nhận thức được sự thật này thì cái ta tà kiến tham ái chấm dứt, đoạn tận tham sân si là Niết-bàn, nên thấy pháp như nó đang là chứ hoàn toàn không có bản ngã.

Vì vậy sống tùy thuận theo vô thường chính là buông xuống cái ta tham ái chấp thủ, để cho tâm hồn rỗng lặng trong sáng và tự do. Việc gì tới thì bạn căn cứ vào hiện thực ấy để giải quyết, khi xong rồi thì buông ra. Mỗi khi tâm hồn thực sự rảnh rang bình lặng, bạn sẽ tiếp xúc được với sự sống mới mẻ đích thực, và lúc bấy giờ bạn không còn có ý niệm chọn lựa cái này hoặc loại bỏ cái kia.

Vì cả hai khuynh hướng ấy đều do cái ta ảo tưởng bày vẽ ra, và càng không thể thành lập vì sự sống vốn không ngừng biến chuyển. Thấu rõ được điều này, bạn hoàn toàn tự do tự tại sống tùy duyên thuận theo sự đổi thay của các pháp mà không kháng cự, tránh né hoặc khổ não bởi vô thường.


Vườn hoa Phật giáo
 

PhuongChau

Diễn đàn XNC
#56
Xuân của những người con xa xứ

Người ta không thể cứ ôm mãi ký ức giữa dòng đời cuộn chảy. Tôi cũng phải hòa vào cuộc mưu sinh khắc nghiệt đôi lúc tưởng không còn lối quay về. Cuộc sống bây giờ cái gì cũng đầy tay, song tôi vẫn mãi bâng khuâng nhớ hương vị Tết quê thanh đạm thuở xưa.


Ảnh - Nguồn: Internet

Một năm tưởng cũng dài lắm, càng dài đối với những con người quanh năm tất bật nghèo khó. Nhưng họ vẫn đợi Tết như đợi một người thân phương xa trở về, dẫu chỉ để xem vô số mặt hàng tràn ngập chợ quê, dẫu chỉ để ngắm một cành đào vừa chớm bông nơi góc phố. Những con tò he như vẫn hót với chất giọng trong trẻo giữa ồn ào nếp chợ, một dạng sóng âm thanh lọc ký ức nhiều bụi bám.

Nếu Tết vĩnh viễn lạc lối nơi phồn hoa giả tạo; nếu Tết nối dài thêm thời gian, những đứa con xa chắc lại nhòa nước mắt hướng về quê cúi đầu lễ tạ. Lớp người già lại tiếp tục từng đêm chờ bước chân quen trở về xóm cũ. Nhưng cũng thật xốn xang khi quê nhà một ngày màu sơn phố thị vùi lấp rêu phong cổ kính. Sẽ thật buồn nếu những bụi tre ngà bị bứng và thay vào bức tường chói lóa. Và nếu Tết có về cũng thật buồn khi tôi phải đứng trên nền móng hoang vu của đình làng và những ngôi nhà thờ họ tộc…

Nhớ đình làng, nhớ những ngôi nhà thờ họ rêu phong mỗi dịp Tết về lại đông đúc vui nhộn. Lũ trẻ tha hồ được chiều chuộng, được phát bánh kẹo và còn được những người xa quê nay trở về mừng tuổi xoa đầu. Những cụ già trong bộ áo dài khăn đóng nghiêm cẩn hành lễ trước sự chứng kiến của con cháu trong họ tộc được lưu vào tâm khảm mỗi tuổi thơ trong ngần mắt biếc. Chiếu được trải kín sân, các bà têm trầu bưng ra đặt lên chiếu cùng trà, và thuốc lá.

Chuyện vui trong năm rôm rả, chuyện nhớ nhà từ Tết trước của những đứa con xa, chuyện tu sửa nhà thờ, chuyện tặng quà, bằng khen cho trò ngoan học giỏi là con cháu trong họ… Những mâm lễ được hạ xuống, chén rượu quê chơn chất chúc thọ ấm lòng. Trẻ con không tả hết niềm vui cứ ao ước những ngày Tết dài mãi ra.

Người ta không thể cứ ôm mãi ký ức giữa dòng đời cuộn chảy. Tôi cũng phải hòa vào cuộc mưu sinh khắc nghiệt đôi lúc tưởng không còn lối quay về. Cuộc sống bây giờ cái gì cũng đầy tay, song tôi vẫn mãi bâng khuâng nhớ hương vị Tết quê thanh đạm thuở xưa. Từ hai bảy tháng Chạp trong xóm đã râm ran tiếng nói cười, tiếng chày quết chả, tiếng trẻ con túm tụm thả cửa chơi trò. Vào quãng giữa năm anh em tôi đã lo đào cộc tre phơi khô chất sau hồi để Tết nấu bánh chưng; rồi thường được giao nhiệm vụ mang lá dong ra giếng rửa từng ngọn thật sạch.

Năm ngoái tôi về vẫn thấy ba tôi tự tay gói bánh, dẫu nó không vuông thành sắc cạnh bằng những cặp bánh chỉ cần alô là người ta mang đến. Ba tôi bảo đây là tấm lòng thành dâng cúng ông bà, phải chọn nếp, làm nhân, và tự gói.

Nhớ mùi hương trầm thơm dịu ngọt được vấn giấy trắng có một sọc màu đỏ. Bất cứ lúc nào, hễ hương trầm phảng phất tôi lại ngỡ Tết đang rất gần. Mỗi lần tôi về, ba tôi thường nhắc tôi trước hết là rửa ráy vào thắp hương lên bàn thờ và lúc ra đi cũng vậy. Vào những ngày cận Tết, điều ba tôi cẩn trọng nhất là ở gian thờ, với những người đã mất vẫn một nụ cười mãn nguyện. Có lẽ trong thâm tâm ba mẹ tôi, các cụ vẫn sợ một ngày nụ cười ấy nhạt phai, sợ một hành động bất cẩn sẽ khiến những người đã khuất tủi phận mà lặng lẽ ra đi một lần nữa.

Những đồ vật thờ cúng trên bàn thờ sẽ được mang xuống rửa sạch, lau chùi bóng loáng. Cặp bánh chưng đầu tiên vớt khỏi nồi, ép nước vừa khô là được đặt lên bàn thờ; những món ngon nhất cũng được dâng trước lúc gia đình với những khuôn mặt quây quần thưởng thức. Tôi nhớ lắm ông bà nội ngoại nhưng cảm nhận về sự vắng mặt của họ vẫn còn khá mơ hồ. Có lẽ vì thế hồi nhỏ tôi vẫn thường lui tới lùm Mây, nơi được xem là có nhiều người trong cuộc chiến đã oan khuất nằm xuống…

Trước mặt lùm Mây là bãi hoang rộng, chiều nào cũng có trâu bò gặm cỏ. Không sợ trâu thất lạc hay phá phách, lũ trẻ thả chúng nơi đây là có thể thỏa chí chui vào trong lùm hái trái, hái lá cây ăn được, đào củ mài hoặc ngủ say sưa… Một thanh niên đầu tiên ra bãi hoang trước lùm Mây dựng ngôi nhà rộng sáu mươi mét vuông bằng gạch tự đóng, đưa vợ con ra đó sống; chỗ đất thênh thang thì xin phép làng cày xới trồng đỗ lạc.

Từ đấy không còn trâu bò đến, không còn những cánh diều bay lên và tiếng lịch bịch lũ trẻ đá bóng, cũng không còn các cụ già bà lão hay ngồi hóng mát vào mỗi chiều lộng gió… Ban đêm con nít tuyệt nhiên vắng; phải đợi lúc cái bóng hai lăm oát ngoài hiên ngôi nhà lẻ loi bật lên, người ta mới lui tới uống nước ngon.

Vào dịp cận Tết, xóm tổ chức một mâm nhỏ cúng hồn những người xấu số, mong rằng ở phía bên kia cuộc đời họ cũng được hưởng chút hương vị Tết an lành. Công việc này được quan tâm chu đáo, như cái lễ cúng đất chung của xóm. Lệ này có từ khi lập làng, diễn ra đều đặn hằng năm trước lùm Mây (chỉ gián đoạn vào những năm chiến tranh chống Mỹ quá ác liệt).

Tuổi nhỏ không hiểu gì, đứng ngoài vòng cuộc lễ sao cứ thấy lâng lâng, nghẹn ngào. Ngày đó làng gồm bốn ấp, mỗi ấp được cấp cho năm sào ruộng, canh tác sanh lợi để lo chi phí lễ; riêng làng là một mẫu hai. Lễ vật do người dân làm tập trung tại nhà Hội trưởng. Ngoài ra mỗi gia đình đều có một mâm bánh (bánh tét, bánh ít, bánh nậm…) người nghèo thì khoai, sắn.

Tôi thoáng nghĩ, những người oan khuất không may mắn với cõi trần chắc sẽ mừng lắm, không phải ở chút lễ bình thường mà ở tấm lòng của bao con người trong làng và họ tộc, sẽ an ủi họ hướng về miền sáng tâm linh mà siêu thoát.

Có năm hương án, bốn của bốn ấp và một của làng đặt chính giữa. Đồ giấy có hình hài của các vị trưởng họ, binh lính. Đặc biệt nhất là vị Tiêu diện cao to, khuôn mặt dữ dằn, tay cầm độc ba ngạnh, miệng thét ra lửa. Vị này, theo quan niệm của làng, sẽ trừng trị những cô hồn quấy phá buổi lễ, quấy phá cuộc sống của người dân trong suốt cả năm, sau đó ngài sẽ chia đều lộc cúng cho tất thảy.

Từ nghĩa cử này tôi dường như đã “hiểu” hơn về những người khuất mặt theo cách gọi dân gian, và từ đó ít cảm thấy sợ ma mỗi lần đến lùm Mây cũng như ngang qua đình vào ban đêm như trước nữa. Họ cũng như ông bà tổ tiên mình trên bàn thờ, chỉ là không may lạc bước nên u hoài vất vưởng.

Lễ bắt đầu vào yết lúc ba giờ chiều, chong đèn dầu kéo dài suốt đêm cho tới mười giờ sáng ngày hôm sau. Suốt thời gian đó kèn trống chiêng la vang trời, cờ ngũ hành chung quanh phấp phới. Việc hành lễ hết sức long trọng giữa nghi ngút khói hương cùng lời khấn vái từ Ban chủ lễ. Lúc lễ tất, nhà nhà bưng mâm bánh trái về. Chủ lễ sẽ thu lại mỗi mâm dăm ba cái bánh, cùng với xôi thịt mang về tại đình dọn ra mời chức sắc vai vế trong làng hưởng lộc; còn dân của ấp nào về ấp nấy…

Có một năm không về quê được, trong mâm cúng tất niên vừa hạ xuống, giữa tiếng nói cười của mấy ông hàng xóm, tôi bỗng giật mình tưởng đang chung vui bên ở nhà ông Hội trưởng sau khi lễ vật bưng về từ lùm Mây. Bây giờ bãi hoang phía trước lùm không còn nhận ra ở đâu nữa, nhà san sát và không một cây cổ thụ nào tồn lại để làm chứng cho nơi này. Lệ làng mất nét, trả lại trong hương ước một tờ giấy trắng. Để rồi cứ tới những ngày cận Tết, các cụ cao niên lại ra đình làng thắp chút hương xưa nhớ vọng.

Chợt nghĩ nếu một dịp Tết trở về quê bỗng tuyệt nhiên vắng bóng các cụ già bà lão, sẽ ra sao? Không ngang vai bằng lứa, một thanh niên như tôi dĩ nhiên không “bạn bè” gì với các cụ. Tết là mùa vui, mùa của trăm hoa khoe sắc, mùa của tuổi xuân tràn sức sống, mùa của sự trỗi dậy… Nhưng vắng họ đình làng bỏ ngõ; những cuộc lễ trọng của làng sẽ phai mờ sinh khí.

Trong mỗi ngôi nhà vắng người râu tóc bạc phơ, gian thờ dường như hồn thiêng hoang lạnh. Những cái khoanh tay kính cẩn trước ông bà sẽ gieo vào tâm thức lũ trẻ mãi mãi cho đến khi chúng tung tăng ở cuối chân trời góc bể, hình ảnh đó vẫn là tiếng gọi quay về nguồn cội.

Nhà tôi có một cây đào trước hiên; mỗi ngày mồng trôi qua, hoa rụng càng nhiều. Tôi cứ sáng sớm thức dậy lại nhìn hoa phủ kín mặt đất mà ngơ ngẩn như vừa rơi một vật quý xuống giếng. Dạo khắp đầu thôn cuối xóm, tôi không muốn nán lại bất cứ nhà ai; kể cả những trò chơi Tết vui nhộn ao ước từ lâu nay vẫn ngại ngần tham gia, tiếc thời gian hơn những đồng bạc mừng tuổi còn thơm mùi giấy.

Sân đình làng nhộn nhịp tới khuya với nhiều trò chơi dân gian… Về nằm xuống lại sợ sáng tỉnh giấc trên mặt đất sẽ không còn xác đào đỏ au; vẫn biết những tờ lịch hiếm hoi đã biến mất và mẹ đã thay tôi dọn đi sắc màu ám ảnh suốt những tháng ngày mong đợi ngỡ như Tết sẽ không về nữa bao giờ.


Vườn hoa Phật giáo
 
Chỉnh sửa cuối:

PhuongChau

Diễn đàn XNC
#57
Hãy đẹp ngay từ tâm mình

Dẫu sao, ông bà mình cũng đã dạy, “Cái nết đánh chết cái đẹp”. Cho nên, hãy sửa soạn cái tâm, chăm sóc cái tâm cho thật đẹp.


Ảnh - Nguồn: Internet

Ngành thẩm mỹ học cho rằng, khi chưa có con người trên trái đất này thì chưa có cái đẹp. Lúc bấy giờ đất đá, sông nước, núi rừng, biển cả, trăng sao… đã có rồi, nhưng chưa có cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao cả, chưa có gì hết! Đến khi con người xuất hiện và phát triển đến chừng mực nào đó, lúc bấy giờ cái đẹp và cái xấu, cái thẩm mỹ và cái phản thẩm mỹ mới được con người xác lập.

Đẹp là một phần của sự sống mà con người hằng mong ước, là một cái gì phù hợp với sự sống của con người. Đẹp bao giờ cũng gắn liền với sự sống lý tưởng của con người, không thể có cái đẹp nằm ngoài sự sống. Tức là, nói theo ngôn ngữ Duy thức học, đối tượng nhận thức không thể tách rời chủ thể nhận thức. Cho nên, cái đẹp phải phù hợp với sự sống của chúng ta, chúng ta hằng mơ ước về nó, khát vọng về nó, nó hiện lên trong vùng lung linh của lý tưởng. Cái đẹp ấy chính là vẻ đẹp của nội tâm và ngoại giới, vẻ đẹp của thân tâm con người.

Ở đời ai cũng yêu thích cái đẹp. Cái đẹp của thiên nhiên, của tạo hóa, của con người xây dựng nên như những công trình kiến trúc độc đáo, những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc, hội họa... Và cái đẹp ai cũng quan tâm, để ý là vẻ đẹp của con người.

Con người, theo thẩm mỹ học, vốn là một tác phẩm nghệ thuật đẹp nhất! Nhưng nghệ thuật bao giờ cũng là của sự thăng hoa, cho dù hiện thực có giản dị, có đau thương, gian khổ đi chăng nữa thì nghệ thuật phải trên nguyên tắc của sự thăng hoa, thăng hoa cả chủ thể và đối tượng. Cho nên, con người từ xưa đến nay không ngừng nỗ lực làm đẹp.

Làm đẹp là một nhu cầu của hầu hết mọi người. Người ta có thể làm đẹp bằng nhiều cách: truyền thống, dân gian, cổ điển, có cách làm đẹp hiện đại... Nói chung, có cả trăm ngàn cách làm đẹp, và có người cũng đẹp hẳn ra, nhưng cũng có người làm hoài vẫn không đẹp. Vì sao vậy? Vì cái "nguyên mẫu" nó… không đẹp. Cho nên, làm đẹp không phải là cái tội. Cái tội (nghiệp) là không thể làm cho mình đẹp ra khi mình vốn đã… xấu. Biết làm sao bây giờ? Cha mẹ sinh mình ra cũng đâu muốn mình xấu. Cha mẹ cũng không có quyền lựa chọn cho mình khuôn mặt đẹp hay xấu thì làm sao mình lựa chọn?

Có người vì "xấu" quá nên mất hết niềm tin, sống trong mặc cảm, tự ti, không dám mơ ước điều gì cao xa, cho dù trong lòng vẫn cháy bỏng tình yêu cuộc sống. Chẳng biết bày tỏ cùng ai nỗi niềm buồn tênh đó, có người tìm đến chùa để… tâm sự với Phật. Phật thương chúng sinh, chắc sẽ không nói tâm sự của mình cho người khác, nên tha hồ mà kể lể, mà khóc, giấu mặt trong đôi bàn tay bé nhỏ!

Phật thương chúng sinh, nên sẽ giúp. Phật là Đại y vương, có khả năng điều trị cả thân bệnh lẫn tâm bệnh, nên sẽ có cách dạy cho chúng sinh làm đẹp, vì Phật biết rõ, thấy rõ nguyên nhân sâu xa của cái xấu. Nếu mình muốn đẹp mà không biết vì sao mình xấu thì không tài nào làm cho đẹp được. Cho nên, Phật bắt đầu phân tích bệnh lý cho chúng sinh hiểu. Có 10 nguyên nhân (hay nghiệp nhân) khiến cho chúng sinh nhận lấy kết quả có một thân hình hay khuôn mặt xấu xí.

1. Thường hay nổi cơn thịnh nộ. Thịnh nộ là giận rất dữ dội. Khuôn mặt của người đang giận dữ thì… không đẹp chút nào hết, dù cho người đó là hoa hậu! Lúc đó dù có bao nhiêu lớp son phấn, mỹ phẩm đắt tiền… cũng không thể nào che được cái xấu. Hơn nữa, mỗi khi “nổi cơn thịnh nộ” thì sẽ “quên đi nghĩa tình”.

Nghĩa tình đã quên hết thì tha hồ mà làm khổ cho nhau. Kinh Di giáo nói: “Lòng giận tức độc hại hơn lửa dữ, thường phải đề phòng chớ cho nổi lên. Kẻ giặc cướp của công đức, chẳng ai bằng giận dữ”. Giận hờn, thịnh nộ không những tàn phá dung nhan hiện tại mà còn thấm vào trong xương, trong máu, tạo thành chủng tử cho đời sau, kiếp sau, sinh ra ở đâu, sống trong hoàn cảnh nào cũng xấu xí. Cho nên, muốn đẹp không phải là giải phẫu chỉnh hình mà cần ‘lột bỏ cơn thịnh nộ’.

2. Thường hay ấp ủ oán hận. Chính là nuôi dưỡng, chất chứa hận thù trong lòng. Có người hận cha mẹ, hận anh em, hận bạn bè, hận xã hội và hận luôn chế độ… nhưng cũng có người hận chính bản thân mình. Dù oán hận ai đi nữa thì người khổ đau nhất vẫn chính là mình. “Hận thù diệt hận thù, đời này không thể có”, kinh Pháp cú đã nói vậy. Cho nên, càng ấp ủ, càng nuôi dưỡng, càng chất chứa hận thù thì hận thù càng thêm lớn, càng thêm khổ đau cho đời này và cả đời sau, không khi nào được vui tươi, xinh đẹp.

Chỉ có “Từ bi diệt hận thù, là định luật ngàn thu”. Hận thù trút bỏ rồi thì mình thành con người mới, như người đặt gánh nặng trên vai xuống, bỗng dưng thấy mình nhẹ tênh, sung sướng vô cùng. Khi ấy tự nhiên thấy mình vui tươi, trẻ đẹp ra.

3. Dối gạt người khác. Tức là sống không thật lòng, sống hai mặt, lừa dối người. Những người như vậy, họ chỉ có cái mặt nạ, cái vỏ bọc bên ngoài, còn bên trong xấu xí, lừa dối đủ điều, lừa dối cả người thân của mình. Vì sống với cái vỏ bọc bên ngoài, cho nên có che bao nhiêu lớp cũng lòi cái xấu ra ngoài.

4. Quấy rối chúng sinh. Đó là những người ưa đặt điều thị phi, vu khống, sách nhiễu, khủng bố, chọc ghẹo, xúc phạm… người khác, loài khác; phá vỡ hạnh phúc, gia cang người ta. Người như vậy không những nhận lấy quả báo xấu xí mà còn không bao giờ nhận được sự tôn trọng của người khác, luôn bị người khác coi thường.

5. Không có ái kính đối với cha mẹ. Người biết thương yêu và kính trọng cha mẹ, mặt họ luôn rạng ngời hạnh phúc. Ngược lại, người không biết ái kính cha mẹ chắc chắn là người xấu, không thể đẹp được.

6. Không cung kính Hiền Thánh. Người nào coi thường hình tượng Phật và Bồ-tát, khinh chê người khác lễ lạy Tam bảo, vào chùa thấy Phật không lạy, thấy Tăng không chào, còn tỏ thái độ bất kính, khinh khi, coi thường thì sẽ mất hết phước báo để được xinh đẹp.

7. Xâm đoạt của cải và điền nghiệp của Hiền Thánh. Người nào trộm cắp, chiếm đoạt… tài sản và đất đai của chùa chiền, đền miếu thì bị tổn giảm phước báo nghiêm trọng.

8. Làm tắt đèn đuốc nơi tháp miếu Phật. Đây là hành vi cố tình phá hủy vật dụng thắp sáng, khiến chùa tháp bị tối tăm. Việc làm này bị quả báo mặt mày luôn tăm tối.

9. Chê bai, khinh rẻ người xấu xí. Người nào khởi tâm ngã mạn, khinh chê người xấu, người bị tật nguyền sẽ bị mắc quả báo xấu xí.

10. Tập các ác hạnh. Người nào hay làm các việc ác, tà hạnh như không giữ năm giới, tám giới... sẽ bị quả báo không thể xinh đẹp.

Đó là mười nghiệp hay mười nguyên nhân sâu xa dẫn đến quả báo xấu xí, không xinh đẹp. Hễ đã gây tạo một trong mười nghiệp trên thì không thể nào xinh đẹp được, cho dù có chỉnh sửa, cắt vá, tạo hình bằng cách nào. Cho nên, để có được thân tướng đoan chánh, nghiêm trang, xinh đẹp thì phải: không sân, không hận, không dối, không quấy, kính yêu cha mẹ, tôn trọng Hiền Thánh, không xâm hại sản nghiệp của Hiền Thánh, không làm tắt đèn đuốc nơi chùa chiền, không khinh rẻ người xấu, không tập các ác hạnh; lại còn phát tâm tô vẽ trang hoàng tượng, tháp Phật, quét dọn tháp miếu Phật, quét dọn đất già-lam, dâng hoa cúng Phật...

Trong mười cách làm đẹp ở trên, hễ làm được một cách thì đẹp được một phần, đẹp được một vẻ, hay nói cách khác là "có một vẻ đẹp riêng". Nếu làm được cả mười thì người ấy nhất định đẹp đến… "mười phân vẹn mười"! Đức Phật nói đại ý, coi những người ‘sắc nước hương trời’, đến nỗi ‘mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da’, khiến ‘chim sa cá lặn’… ấy, phải biết là họ nhờ vào sự thực tập cái nhân lành đời trước, đó là lìa xa mười nghiệp nhân làm xấu, sống theo mười nghiệp nhân làm đẹp. Tùy theo mức độ thực tập tránh xa mười nhân làm xấu, thực hành mười nhân làm đẹp, mà trở nên đẹp người đẹp nết, hay chỉ đẹp người mà không đẹp nết.

Dẫu sao, ông bà mình cũng đã dạy, “Cái nết đánh chết cái đẹp”. Cho nên, hãy sửa soạn cái tâm, chăm sóc cái tâm cho thật đẹp. Kinh Ma ý dạy rằng: “Cất trăm ngôi chùa chẳng bằng cứu sống một người. Cứu sống người khắp mười phương thiên hạ, chẳng bằng một ngày tu tâm”. Người biết tu tâm dưỡng tính thì đời này, đời sau, khi nào cũng thấy hiền lành, dễ thương, đó là nét đẹp thánh thiện vậy.


Vườn hoa Phật giáo
 

PhuongChau

Diễn đàn XNC
#58
Người đời vui buồn trong được mất

Được làm cho ta vui vẻ, Mất làm cho ta phiền muộn, khổ đau.


Ảnh minh họa – Nguồn: Internet
Trong cuộc sống với muôn vàn sai khác, chúng ta ai cũng ước mơ, mong muốn mình có được việc làm ổn định, sự nghiệp vinh hiển, công thành danh toại, có gia đình và sống hạnh phúc lâu dài nên khi được thì ta thích thú, vui mừng, đến khi mất thì ta bất an, lo lắng, buồn rầu, đau khổ. Ta cho “được” là may mắn, là hên, là hạnh phúc nên ta vui vẻ, mừng rỡ. Ta cho “mất” là thất bại, xui rủi nên cảm thấy phiền muộn, khổ đau.

Được làm cho ta vui vẻ,

Mất làm cho ta phiền muộn, khổ đau.

Đây là hai ngọn gió đầu trong tám gió, hai gió này lúc nào cũng rình rập mỗi người chúng ta không một phút giây lơ là, từ khi ta có mặt cho đến khi từ giã cõi đời.

Lúc hưng thịnh ta làm ăn xuôi chèo mát mái, phát tài hưởng lộc, ăn nên làm ra, do đó sinh tâm vui mừng, phấn khởi. Khi bị sa cơ thất thế, thua kém lỗ lã thì lại buồn rầu, lo lắng, cảm thấy bị mất mát, đau thương rồi sinh ra phiền muộn, đau khổ. Được thì ta vui vẻ, mất thì ta đau khổ, được và mất, là hai thứ dễ làm cho ta buồn rầu, lo lắng hay an vui, hạnh phúc.

Từ ngữ “thịnh-suy” được triết lý bằng bốn cặp đối đãi nhau như hơn-thua, thắng-bại, lời-lỗ, cuối cùng là được và mất. Bởi hơn thì được, thua thì mất; thắng thì được, bại thì mất; lời thì được, lỗ thì mất; và giống như thế khi mới sinh ra ta cho là được, đến khi từ giã cõi đời ta cho là mất.

Hai ngọn gió “được-mất” này luôn theo ta mãi, nhưng được thì ít mà mất thì nhiều bởi lòng tham lam, ích kỷ vô bờ bến. Khi gặp thất bại bị thua lỗ, thiệt thòi, mất mát, ta sa sút, suy sụp vì phiền muộn, khổ đau xâm chiếm tâm hồn. Lúc được thời thì lên như diều gặp gió, ta cảm thấy hân hoan, vui vẻ, hạnh phúc, nở mặt nở mày với ông bà cha mẹ, sung sướng hãnh diện với bạn bè người thân.

Những lúc vui thú như vậy ta cảm thấy thân tâm an lạc, nhẹ nhàng. Đến khi thất bại, tán gia bại sản, tài sản chỉ trông thoáng chốc tan thành mây khói làm cho ta cuồng tâm loạn trí, sống dở chết dở như kẻ điên khùng, có khi còn muốn quyên sinh tự tử để chạy trốn khổ đau. Cuộc sống mưu sinh với không biết bao nhiêu mồ hôi và nước mắt, ta vật lộn với đời tìm kế sinh nhai chỉ để giành được một chút hy vọng mỏng manh là nhà cao cửa rộng, gia đình hạnh phúc nên luôn cố gắng đấu tranh sống còn.

Thường thì cái mất nhiều hơn sự được, do đó chúng ta dễ dàng sa ngã trong tối tăm, si mê, mờ mịt. Nếu ta không có chút lòng tin nơi cuộc sống, không có ý chí, và nghị lực thì ta sẽ là người gục ngã trước tiên bởi cuộc sống không đơn giản, và dễ dàng như ta tưởng.

Có một người họ Tái nên người ta thường gọi là Tái ông. Một hôm, con ngựa yêu quý và tốt nhất trong nhà đi đâu mất biệt không thấy trở về. Nghe tin hàng xóm mới đến chia buồn và nói lời an ủi: “Tội nghiệp cho cụ quá, cụ là người nhân từ, phúc hậu từ xưa nay, vậy mà có con ngựa quý lại bị mất.”

Lúc đó, Tái ông mỉm cười nói: “Cũng chưa chắc như thế đâu, nhiều khi trong cái rủi lại có cái may.” Vài ngày sau con ngựa đi mất trở về, và còn dắt theo con ngựa khác đẹp đẽ hơn, khi đó hàng xóm mới đến chia mừng cùng ông: “Ðúng thật cụ là người có phước, tưởng đâu mất con ngựa quý, không ngờ lại còn được thêm một con ngựa đẹp khác nữa.”

Lúc này, Tái ông cũng cười và nói: “Cũng chưa hẳn như vậy, biết đâu trong cái may lại có cái rủi thì sao.” Và đúng là rủi thiệt, con trai duy nhất của ông từ ngày có con ngựa mới đến nhà nó vui vẻ, thích thú quá nên cưỡi ngựa suốt ngày, do đó bị té gẫy chân phải bó bột. Thấy vậy, hàng xóm mới đến chia buồn: “Tội nghiệp cho cụ, cụ chỉ có đứa con trai duy nhất mà bây giờ lại bị gẫy chân, chịu tàn tật suốt đời. Như vậy là trong cái may mắn lại có cái xui xẻo phải không thưa ông cụ?”

Tái ông không vì thế mà buồn phiền, ông nói: “Cũng chưa chắc đâu, biết đâu trong cái rủi lại có cái may thì sao.” Chừng vài tháng sau vì có giặc giã khắp nơi nên nhà vua bắt thanh niên đi lính thú, cậu con trai đó nhờ bị gẫy chân nên được ở nhà sống với cha già trọn vẹn.

Chuyện được mất là lẽ đương nhiên trong cuộc đời, ai có đầy đủ phước duyên lắm nên mới ít gặp chuyện rủi ro, xui xẻo. Người đời khi được thì sinh vui mừng, khi mất thì sinh phiền muộn, khổ đau. Chúng ta thử làm một bài toán nhân quả xem sao, nếu kiếp trước ta tạo ít phước báo mà gây nhiều nghiệp ác thì cuộc sống hiện tại ta gặp nhiều gian nan, trắc trở, chẳng được gì.

Ta muốn cuộc sống được nhiều hơn mất thì ngay bây giờ phải biết gầy dựng từ lòng tin sâu nhân quả, phải tích cực tu tâm dưỡng tánh, làm nhiều việc phước thiện. Chúng ta sống bằng tất cả tấm lòng phát xuất từ ý nghĩ cho đến lời nói mà thể hiện ra hành động chân chính để cùng mọi người sống bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.

Ai đã từng có mặt trong cuộc đời mà không một lần gặp hoạn nạn hay vấp ngã, làm việc gì cũng thành công dễ dàng, thì thường sinh tâm cống cao ngã mạn, khinh khi mọi người, làm cho thế nhân chán ghét, muốn lánh xa. Khi gặp hoạn nạn, mất mát, đau thương ta mới biết cảm thông cho hai đấng sinh thành đã vì ta mà chịu khổ nhọc trăm bề.

Tái ông khi lần đầu tiên mất ngựa ai cũng nghĩ ông sẽ đau khổ, buồn rầu nên đến để an ủi, và chia buồn cùng ông. Vậy mà ông vẫn bình thản, an nhiên, chẳng tỏ ra thái độ gì có vẻ buồn phiền nên mới nói “biết đâu trong cái rủi lại có cái may”.

Ông sống lạc quan, yêu đời như thế nên không bị hai ngọn gió được-mất làm lay động tinh thần, do đó luôn sống vui vẻ, thoải mái. Tương tự như thế, khi có thêm con ngựa đẹp do con ngựa mất dắt về ông cũng không vì thế mà hân hoan, vui mừng. Chúng ta khi được thì vui, khi mất thì buồn nên niềm vui, nỗi buồn lúc nào cũng xâm chiếm tâm hồn. Có khi chúng làm cho ta thất điên bát đảo, có khi làm ta cảm thấy vui mừng, thích thú.

Cứ như thế ta luôn bị hai ngọn gió được-mất này làm cho vui buồn lẫn lộn. Trong cuộc sống ai cũng thích được đầy đủ tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều nên khi được thì mọi người thích thú, vui vẻ, phấn khởi, hả hê, cho đó là niềm an vui, hạnh phúc. Chính vì vậy mà ai cũng mong kiếm thật nhiều tiền để hưởng thụ lạc thú dù chúng ngắn ngủi, qua mau.

Khi gặp cảnh làm ăn thua lỗ, mất mát, suy sụp thì phiền não, khổ đau cứ thế chất chồng theo ngày tháng. Có những trường hợp thua lỗ mà tán gia bại sản, tan nhà nát cửa, thân bại danh liệt, sự nghiệp chẳng còn, bao nhiêu công lao gầy dựng gần cả đời người, nhất là những nhà triệu phú thường hay tự tử vì không đủ sức chấp nhận, chịu đựng.

Vườn hoa Phật giáo
 

PhuongChau

Diễn đàn XNC
#59
Cuộc đời chỉ là tương đối

Hầu hết chúng ta đều mắc phải cái bệnh “đòi hỏi tuyệt đối”. Giàu thì muốn mình giàu hơn tất cả, sang cũng muốn mình sang hơn tất cả, cho đến đẹp, giỏi, khen, đều là hơn tất cả. Có cái gì thua kém hơn người là buồn, tủi, bực dọc, không hài lòng.


Ảnh minh họa – Nguồn: Internet
Do đó cuộc sống ít khi có hạnh phúc, vì thấy mình còn thua người này kẻ nọ. Hoặc than trách người thân của mình sao không được như ý mình muốn. Những nỗi khổ đau buồn bực ấy đều do không hiểu “cuộc đời tương đối mà!”

Muôn vật tương đối
Muôn vật hiện có trên cõi đời đều là tương đối. Người thì có nam nữ, loài vật thì có giống cái giống đực, điện thì có điện âm điện dương…, từ lý tương đối ấy mà sanh ra vạn vật. Chính lý tương đối là gốc sanh hóa vô cùng vô tận. Nếu chúng ta tách rời sự vật ra từng phần đơn độc thì sự sanh hóa phải dừng lại.

Cuộc sống chúng ta là tương quan trong cái đối nghịch, sanh trưởng trong cái chống chọi. Như thế, chúng ta làm sao tìm ra sự bình an hoàn toàn, sự hạnh phúc miên viễn trong cuộc đời tương đối. Sáng suốt nhất là, chúng ta nhìn sự tương đối là lý đương nhiên, không oán hờn, không trách cứ trước mọi sự việc trái ngược nhau. Đồng thời chúng ta khéo lợi dụng lý tương đối tạo thành những công năng hữu ích cho con người.

Thí dụ nước với lửa là đối nghịch nhau, song chúng ta khéo dùng lửa đun sôi nước để nấu chín các thức ăn… Điện âm điện dương đối nghịch nhau, chạm nhau là tóe sáng, con người khéo lợi dụng sự phát sáng đó tạo ra vô số công năng của điện… Chừng đó chúng ta mới thấy sự hữu dụng của nước và lửa, của điện âm và điện dương phục vụ cho con người một cách hữu hiệu. Chúng ta cứ sợ nước dập tắt lửa, tách rời xa chúng thì chúng ta có được lợi gì trong cuộc sống?

Như vậy, chúng ta không sợ sự đối nghịch của vạn vật, mà chỉ khéo léo sử dụng sự đối nghịch một cách hữu hiệu trong cuộc sống của chúng ta.

Bản thân con người tương đối
Con người có hai phần vật chất và tinh thần, cả hai phần này đều là tương đối.

 
Chỉnh sửa cuối:

PhuongChau

Diễn đàn XNC
#60
Tiếp theo bài post trên.

Phần vật chất
Đức Phật phân tích một cách đơn giản, trong cơ thể con người do bốn thứ cấu tạo thành. Phần cứng rắn là đất, phần thấm ướt là nước, phần nóng ấm là lửa, phần chuyển động là gió. Bốn phần này chung họp làm thân con người và tồn tại một thời gian. Nếu thiếu một trong bốn phần, thân này phải bại hoại.

Bản thân bốn phần này lại đối nghịch nhau, nước chống với lửa, gió chọi với đất. Cho nên trong thân khi nước thịnh lửa suy thì sanh ra bệnh lạnh, hoặc phù thũng…, ngược lại khi lửa thịnh nước suy thì sanh ra bệnh nóng, nhức đầu…, khi gió thịnh đất suy thì sanh ra bệnh đau nhức khắp thân thể; khi đất thịnh gió suy thì sanh ra bệnh tê liệt, khó thở… Do đó mang thân này suốt đời chúng ta phải lo điều hòa tứ đại.

Tứ đại được điều hòa thì thân mới khỏe mạnh an ổn, ngược lại thì đau yếu liên miên. Bốn thứ đối nghịch này, chúng ta có nên hủy hoại nó không, nếu chúng ta còn muốn sống? Hay mỗi ngày chúng ta cố gắng điều hòa chúng để cho thân này được an ổn? Bốn thứ thù địch nhau, song nhờ bốn thứ mà thân này mới tồn tại.

Như thế, chúng ta sợ ghét sự chống đối hay khéo điều hòa sự chống đối? Muốn thân này được sống còn an ổn, không cách nào hơn chúng ta phải biết điều hòa chúng một cách thích hợp. Đó là khôn ngoan, là biết sống.


Phần tinh thần
Nội tâm chúng ta đối nghịch nhau rất là phức tạp. Ở đây tạm chia tâm niệm thiện và tâm niệm ác đối nghịch nhau. Song khi niệm ác dấy lên thì niệm thiện ẩn đi, ngược lại khi niệm thiện dấy lên thì niệm ác trốn mất, hai thứ đối nghịch mà không đồng thời.

Vì thế nếu biết tu, chúng ta luôn luôn nuôi dưỡng niệm thiện thì niệm ác lặn mất. Nếu người không biết tu, cả ngày dung chứa niệm ác thì niệm thiện không bao giờ xuất hiện. Nuôi dưỡng niệm thiện là bậc Hiền Thánh, dung chứa niệm ác là kẻ bạo tàn.

Chúng ta trọn quyền tạo lập cho mình một chỗ đứng vào hàng thánh thiện, cũng chính chúng ta tự bước lùi vào hang quỉ, chỗ thú cầm. Không ai bắt buộc, không ai lôi kéo chúng ta đến nơi này hay nơi nọ. Do đó, đức Phật dạy chúng ta tu quán Từ bi để trừ tâm sân hận, quán Tứ niệm xứ để diệt mê lầm, hoặc niệm danh hiệu Phật để át tạp niệm…

Chúng ta có đủ khả năng làm Hiền Thánh, chúng ta cũng có đủ chủng tử ngạ quỉ, súc sanh. Bởi vậy nói tu tâm là chúng ta khéo điều phục những tâm niệm xấu ác, nuôi dưỡng những tâm niệm hiền thiện. Khi sắp lâm chung, những tâm niệm nào mạnh sẽ lôi chúng ta đến cảnh tương xứng. Vì tâm niệm là gốc của luân hồi sanh tử.


Thế thì bản thân chúng ta từ vật chất đến tinh thần đều là tương đối. Như vậy, chúng ta không ưa tương đối, chạy trốn tương đối có được không? Quả là điều dại khờ.

Chúng ta phải khôn ngoan sáng suốt tìm mọi cách điều hòa cho thân an ổn, chinh phục cho tâm hiền thiện. Đây là việc làm của người biết sống và sống vươn lên.

Tương quan mình và người
Trong cuộc sống tương quan giữa mình và mọi người chung quanh, hầu hết chúng ta mắc phải cái bệnh “cầu toàn trách bị”. Chúng ta đòi hỏi những người sống gần với mình phải vẹn toàn một trăm phần trăm (100%) như ý mình muốn, phải đầy đủ hoàn toàn những điều như tâm mình tưởng. Nếu những người thân chỉ được tám chục phần trăm (80%) trong sự đòi hỏi của mình, sống gần gũi lâu ngày còn hai chục phần trăm bất như ý này sẽ làm cho chúng ta sanh bực bội chán chường.

Sao chúng ta không đặt lại câu hỏi, chính mình có được vẹn toàn mọi điều như ý mình muốn chăng? – Hẳn là không. Mình đã không được vẹn toàn, sao lại đòi hỏi người phải vẹn toàn, có phải là bất công, phi lý không?

Ngày xưa ở các nước Đông phương quyền lập gia đình cho con cái là ở cha mẹ, cha mẹ định sao con cái phải nghe vậy, do đó có những gia đình vợ chồng không hòa thuận vì không cảm thông nhau, nên đi đến đổ vỡ ly dị. Ngày nay ở các nước Tây phương con cái được quyền chọn lựa đôi bạn cho mình. Họ còn có quyền sống gần với người họ chọn lựa một thời gian, sau mới quyết định thành đôi bạn hay không, cha mẹ không được can thiệp đến đời tư của họ. Thế mà khi đã thành đôi bạn, lại vẫn ly dị nhau. Đây là lỗi tại ai, cha mẹ ép buộc chăng?

Quả thật đây là cái bệnh đòi hỏi vẹn toàn một trăm phần trăm (100%) theo ý mình muốn. Bởi không có ai thỏa mãn sự đòi hỏi của mình nên từ thân biến thành sơ. Thế là cứ ly dị mãi, đến già trở thành người cô độc. Chúng ta còn thêm lắm bệnh. Nào là muốn ai cũng khen mình, có người chê là buồn khổ. Muốn mọi người gần mình phải tuyệt đối tuân theo sự sắp đặt của mình, nếu tám mươi điều họ theo, còn hai mươi điều họ chống là giận dữ bực tức. Đòi hỏi người thân của mình phải tốt tuyệt đối, nếu họ có vài ba điều xấu liền chán nản muốn lánh xa. Đến tình cảm thương yêu cũng vậy, bắt buộc người thân của mình phải thương yêu mình tuyệt đối, nếu bị chia sẻ cho ai, dù người ấy là thân thuộc hợp lý, vẫn cảm thấy buồn.

Chính vì lòng tham lam đòi hỏi quá đáng, khiến người chung quanh chúng ta từ từ muốn xa lánh chúng ta. Đây là vì không biết cuộc đời là tương đối, nên không thông cảm với mọi người chung quanh, kết quả tự chuốc lấy khổ đau cô độc.

Trái lại, chúng ta tập nhìn mọi người với cặp mắt tương đối, không đòi hỏi quá đáng, dễ cảm thông tha thứ nhau. Được vậy đời sống sẽ vui tươi, người thân đông đảo, dễ dàng đạt được hạnh phúc.


Bệnh thần tượng
Chúng ta dễ mắc cái bệnh “thần tượng hóa” người mình quí kính. Người mình quí kính là thánh thiện một trăm phần trăm (100%), nếu thân cận thời gian, thấy vị ấy có một vài điều còn phàm tục, “thần tượng” liền sụp đổ. Từ đây ta sanh tâm khinh lờn cho đến bất mãn, không còn tin tưởng vào ai nữa. Đây là một trọng bệnh, khiến ta tự cao ngạo mạn, mất hết lòng tin.

Khi trước do tin vào bậc thầy thánh thiện nên ta tinh tấn tu hành, nay mất lòng tin rồi nên sanh bê tha hư đốn. Tại sao ta không xét nét kỹ càng xem, bậc thầy kia hơn mình bao nhiêu phần? Nếu ta có hai mươi phần trăm (20%) tốt, vị thầy có đến bốn chục phần trăm (40%) hay sáu chục phần trăm (60%) thì rất đáng cho mình học tập theo, vì vị ấy đã tốt hơn mình gấp đôi gấp ba, còn chê trách nỗi gì! Bởi vì vị thầy chưa phải là Thánh, là Phật làm sao hoàn toàn thánh thiện được.

Chúng ta cảm thông vị ấy đang tu, là còn những cái dở để sửa, để bỏ. Bồ-tát vẫn còn vi tế vô minh, nếu sạch hết vô minh là thành Phật. Biết rõ cái tốt của những vị mình quí kính là tương đối thì mình kính tin vừa phải, chừng mực, không “thần tượng hóa”. Nếu thấy vị ấy còn vài nét phàm tục, mình cũng cảm thông tha thứ, vì đây là người đang tu đang tiến, đừng đòi hỏi quá đáng. Hoặc giả ngày xưa mình tin vào vị thầy gần như tuyệt đối, vị ấy dạy gì mình cũng cố gắng làm cho được, nhờ đó trên đường tu mình tiến bộ vượt bậc. Nay mình mất lòng tin ở vị thầy ấy, sanh tâm lui sụt, đây là điều sai lầm.

Tại sao mình không nghĩ, ta tu là ta tiến, thầy tu thì thầy tiến. Đâu phải thầy tu hay ta mới tiến, thầy tu dở ta bị lùi. Phải tin vào mình, phải trông cậy vào mình. Phật dạy “các ông phải tự thắp đuốc lên mà đi”, lại “các ông phải tự làm cồn đảo cho mình”. Thế nên, không vì “thần tượng sụp đổ” mà ta lùi bước.


Chính chúng ta phải nhìn các bậc thầy quí kính vẫn là tương đối, thì chúng ta khỏi chới với khi trông thấy vài nét phàm tục của các ngài.

Con người chán nản ê chề khổ đau cùng cực, vì những thần tượng của mình dựng lên đều sụp đổ. Còn tin tưởng vào đâu khi lòng tin tuyệt đối dồn vào các thần tượng, mà nay tan vỡ hết rồi! Đây là người mắc bệnh thiếu thực tế, lúc nào cũng lý tưởng hóa kẻ khác. Khi lý tưởng bị thất vọng, họ đâm ra thù ghét chán chường. Cộng thêm bệnh đòi hỏi quá đáng, khiến họ không bằng lòng một người nào trên thế gian này.

Thế là, họ đang sống trong đông đảo quần chúng, mà cảm thấy như mình lang thang trong bãi sa mạc. Sự chán đời tuyệt vọng của những người này phát xuất từ sự gởi gắm tất cả lòng tin vào kẻ khác. Chúng ta phải khôn ngoan nhìn mọi người bằng con mắt tương đối, tin mọi người bằng lòng tin giới hạn. Chúng ta sẽ bằng lòng trong cuộc sống này, và sẽ cảm thông tha thứ những người thân với mình khi họ phạm phải sai lầm. Chúng ta còn chỗ nương tựa duy nhất là chính mình. Mình sẵn có hòn ngọc quí mà lâu nay đã quên lãng. Hôm nay khéo tay mở chéo áo lấy hòn ngọc đem ra dùng, đời ta sẽ hạnh phúc biết là bao!


Vườn hoa Phật giáo
 
Status
Không mở trả lời sau này.