Gánh Nặng Trợ Cấp – “Federal Means-Tested Public Benefits”
Sau hơn 10 năm dài chờ đợi, chị An (x) cùng 3 đứa con nhỏ lên đường tới Mỹ định cư. Chồng chị phải ở lại Việt Nam điều trị bịnh, và sẽ sum họp sau cùng gia đình. Mấy ngày đầu quê hương mới, chị thấy cái gì cũng lạ, tình người thật là ấm cúng. Người thân quen, mỗi người dúi vào tay chị tí tiền gọi là mua quà cho các cháu. Ôi nước Mỹ quả là thiên đường. Có lẽ vì không quen với khí hậu quá lạnh của nước Mỹ, vài ngày sau đứa con nhỏ lên cơn sốt, chị bàn với người anh, cũng là người bảo trợ, đưa cháu đi bác sĩ. Người anh gạt ra, còn nói thêm rằng: “Con nít bị ốm là bình thường, cho nó viên thuốc cảm là xong, đi bác sĩ làm gì cho tốn tiền.” Bịnh của đứa bé ngày càng nặng, chị không nhịn được, bồng con tới bác sĩ, rồi đứa bé đuợc gởi tới bệnh viện nhi đồng điều trị. Vài tuần sau, người anh đưa cho chị xem cái hóa đơn gần $20 ngàn đô từ bệnh viện. Sau một hồi sỉ vả chị thậm tệ, đủ điều. Nào là cô không trả số tiền này thì tôi phải trả; nào là tôi đã ký thỏa thuân với sở di trú Mỹ, v.v. Chân ướt chân ráo, tiếng anh tiếng em đâu có biết gì, vì thương con chị đành cắn răng chịu đựng.
Cơ duyên đưa đẩy, chị tìm được tới tôi – tôi hướng dẫn và giải thích cho chị biết những quyền lợi và phúc lợi của những người di dân có con nhỏ, tôi khuyên chị nên nhờ người nhà dẫn tới bộ xã hội địa phương xin trợ cấp, chị trình bày với người anh và chị dâu ^%^)&@*_)()@*)*@)*_)$@(*)$(@+ và bốn mẹ con bị người bảo lãnh đuổi ra khỏi nhà, chỉ vì người bảo lãnh sợ bị liên lụy vì hiểu sai “Federal Means-Tested Public Benefits”. Câu chuyện của gia đình chị An(x) và hàng trăm câu chuyện tương tự của những gia đình Việt tới Mỹ định cư sau này, người thân trở thành thù hận nhau chỉ vì cái gọi là “Gánh năng trợ cấp công cộng”. Thành viên XNC có ít nhất là 3 người, bị người thân cấm hay hăm dọa xé đơn bảo trợ tài chính, chỉ vì có ý định/xin trợ cấp xã hội.
Bài viết này nhằm giúp các bạn, người bảo lãnh và người được bảo trợ hiểu rõ hơn về “Gánh nặng trợ cấp”
I – Federal Means Tested Public Benefit là gì?
Theo giải thích của USCIS các khoản trợ cấp dưới đây được xem là thuộc “Federal Means Tested Public Benefit”:
Nếu người được bảo trợ xử dụng các trợ cấp công công thì người bảo lãnh sẽ phải hoàn lại số tiền của khoản trợ cấp đó.
Có lẽ từ câu hỏi và trả lời này trên website của USCIS, đã khiến các bạn hiểu SAI, gây nên cảnh gia đình bất hòa. Trước khi đặng lại bản chính cách giải thích và định nghĩa của Bộ Tư Pháp và Sở Di Trú Hoa Kỳ về vấn đề các khoản trợ cấp nào được xem là “Gánh Năng Công Cộng”, tôi xin thích theo sư hiểu biết của mình về cái gọi là “Federal Means Tested Public Benefit”. Nó chỉ là môt phương pháp để sở di trú và bộ ngoại giao Mỹ, xác định ai là người gánh năng và có thể sẽ trở thành gánh năng công cộng, có cho người này nhập cư hay không.
Gánh năng công cộng theo chuyển dịch của Bộ Tư Pháp và Sở Di Trú Hoa Kỳ từ tiếng Anh là “PUBLIC CHARGE”, và sau đây là bản chuyển dịch qua tiếng Việt của cơ quan này.
U.S. Department of Justice
IMMIGRATION AND NATURALIZATION SERCICE (5/29/1999)
QUESTIONS AND ANSWERS – Vietnamese – Public Charge
GÁNH NẶNG CÔNG CÔNG – Câu Hỏi (CH) và Trả Lời (TL)
TỔNG QUÁT
CH1: Tại sao Bộ Tư Pháp (DOJ) và Sở Di Trú và Nhập Tịch (INS) ban hành sự hướng dẫn tại địa phương và luật lệ dự thảo liên quan đến gánh nặng công cộng, và những văn kiện này gây ảnh hưởng gì?
TL1: DOJ va2 INS ban hành sự hướng dẫn và luật lệ dự thảo này nhằm giảm thiểu sự hiểu lầm của công chúng về ý nghĩa danh từ “gánh nặng công cộng” hiện không được định nghĩa trong luật di trú, và sự liên hệ của nó đối với việc nhận trợ cấp công cộng của liên bang, tiểu bang hoặc địa phương. Khi định nghĩa danh từ “gánh nặng công cộng”, DOJ muốn giảm thiểu những hậu quả tiêu cực về y tế công cộng do sự hiểu lầm hiện nay và cũng để cung cấp cho ngoại nhân sự hướng dẫn rõ ràng hơn đối với những loại trợ cấp công cộng, loại nào đucợ xác định, loại nào không được xác định, là gánh nặng công cộng. Sự hướng dẫn định nghĩa danh từ “gánh nặng công cộng” và đưa ra những ví dụ về loại rợ cấp nào được, loại trợ cấp nào không, được viên chức INS cứu xét về gánh nặng công cộng. Nó cũng tóm lược luật hiện hữu, liên quan đến gánh nặng công cộng và giải thích việc INS sẽ hành xử những điều khoản này như thế nào.
CH2: Theo luật di trú “Gánh nặng công cộng” là gì?
TL2: Một ngoại nhân, vào bất cứ lúc nào trở thành “gánh nặng công cộng” thì sẽ không đucợ xét cho nhập cảnh Hoa Kỳ, và không được cứu xét điều chỉnh quy chế để trở thành thường trú hợp pháp. Một ngoại nhân trở thành ganh nặng công cộng cũng có thể bị trục xuất khỏi Hoa Kỳ, dú rằng điều này rất ít xảy ra. Những điều khoản này nằm trong luật di trú trên 100 năm nay, và cuộc cải cách luật di trú và an sinh mới đây đã không thay đổi gì nhiều. Cả INS (bên HOa Kỳ) và bộ ngoại giao (ở ngoại quốc) có quyền xác định về “gánh nặng công cộng”
CH3: Danh từ “gánh nặng công cộng” được định nghĩa như thế nào, và khi nào sự định nghĩa này được áp dụng?
TL3: Sở INS công bố sự hướng dẫn và dự thảo quy luật, lần đầu tiên định nghĩa danh từ “gánh nặng công cộng”. Từ ngữ “gánh nặng công cộng” có nghĩa là một ngoại nhân đã trở thành (nhằm mục đích trục xuất) hoặc có thể trở thành (nhằm mục đích nhập cảnh/điều chỉnh) lệ thuộc vào chính quyền để sinh sống. Định nghĩa này có hiệu lục ngay lập tức. Như được thảo luận dưới đây, INS và Bộ Ngoại Giao sẽ xem xét việc nhận trợ cấp tiền mặc nhằm mục đích bảo quản lợi tức và nhập viện lâu dài do chính phủ đài thọ, để xác định yếu tố lệ thuộc vào chính phủ sinh sống
CH4:Theo quy luật “gánh nặng công cộng”, sở INS và Bộ Ngoại Giao làm sao quyết định người nào cho nhập cảnh hoặc đủ điều kiện điều chỉnh quy chế?
TL4: Trục xuất vì lý do gánh nặng công cộng rất hiếm xảy ra vì những tiêu chuẩn (duyệt xét) rất chặt chẽ. Theo Luật Di Trú và Quốc Tịch, một ngoại nhân có thể bị trục xuất nếu đương sự trở thành gánh nặng công cộng trong vòng 5 năm sau ngày vào Hoa Kỳ vì những lý do không đucợ khẳng định là đã phát sinh từ khi nhập cảnh. Chỉ nhận trợ cấp công cộng không thôi trong vòng 5 năm nhập cảnh không đủ yếu tố để trục xuất một ngoại nhân vì lý do gánh nặng công cộng. Một ngoại nhân chỉ có thể bị trục xuất nếu (1) tiểu bang hoặc một thể nhân nào khác của chính phủ cho trợ cấp đòi phải bồi hoàn nơi ngoại nhân hoặc một người nào khác có trách nhiệm (thí dụ người bảo lãnh trong Đơn Khai Hữu Thệ Bảo Trợ -( Affidavit of Support/đơn bảo trợ tài chính); (2) những viên chức hữu trách của chương trình (trợ cấp công cộng) ra lệnh bồi hoàn tiền; và (3) ngoại nhân hoặc một người nào khác có trách nhiệm, thí dụ người bảo lãnh của ngoại nhân, đã không bồi hoàn tiền. Cơ quan cho trợ cấp phải đòi bồi hoàn trong vòng 5 năm kể từ khi ngoại nhân nhập cảnh Hoa Kỳ, có án lệnh chung thẩm, đã làm đủ mọi cách thu hồi tiền theo án lệnh mà vẫn không có kết quả. Ngay cả trường hợp hội đủ các điều kiện trên đây, ngoiạ nhân đucợ phép chứng minh là những lý do đương sự trở thành gánh năng công cộng đã xảy ra sau khi đương sự nhập cảnh Hoa Kỳ. Nếu chứng minh đuợc thì đương sự không có thể bị trục xuất vì lý do gánh năng công cộng.
CH6: Những loại trợ cấp nào đucợ cứu xét khi quyết định ai là, hoặc có thể là gánh nặng công cộng?
TL6: Không phải tất cả trợ cấp do công quỹ đài thọ đều đucợ xác định khi quyết định ai LÀ hoặc CÓ THỂ LÀ gánh nặng công cộng. Cách hướng dẫn của INS và dự thảo quy luật minh định loại trợ cấp nào có thể hoặc không có thể được cưu xét khi xác định ai là gánh nặng công cộng. Muốn quyết định ngoại nhân nào đã trở thành hoặc có thể trở thành gánh nặng công cộng, INS và Bộ Ngoại Giao phải xem xét nếu đương sự đã trở thành và có thể trở thành người lệ thuộc CHÍNH và chính phủ để sinh sống hoặc là (1) nhận trợ cấp tiền mặt nhằm bảo quản lợi tức, hoặc (2) đã nhập viện để điều trị lâu dài do chính phủ đài thọ (chứkhông phải bị cầm tù vì phạm pháp). Điều trị ngắn hạn nhằm mục đích hồi phục sức khỏe thì không được coi là gánh nặng công cộng.
Những trợ cấp được coi là trợ cấp tiền mặt nhằm bảo quản lợi tức gồm có:
CH7: Có những khoản rợ cấp nào mà ngoại nhân có thể nhận được một cách hợp pháp mà không phải lo lắng cơ quan INS và Bộ Ngoại Giao coi họ như gánh nặng công cộng không?
TL7: CO. Không phải tất cả những trợ cấp công cộng đều được INS hoặc Bộ Ngoại Giao coi xét khi quyết định một người là hoặc có thể rở thành gánh nặng công cộng. Tiêu điểm của gánh nặng công cộng là khoản trợ cấp tiền mặtđược xử dụng để bảo quản lợi tức và nhập viện lâu dài mà chính phủ phải đài thọ Thí dụ những trợ cấp KHÔNG được coi là gánh nặng công cộng gồm:
CH8:INS và Bộ Ngoại Giao có xét đến tất cả các loại trợ cấp tiền mặt trong khi quyết định ai là gánh nặng công cộng hay không?
TL8: Không. INS và Bộ Ngoại chỉ xét đến những trợ cấp tiền mặt nhằm mục đích bảo quản lợi tức là gánh nặng công cộng. Có những chương trình trợ cấp tiền mặt cho những mục đích đặc biệt như: Chương Trình Trợ Cấp Năng Lương Tại Gia CHo Gia Đình Lợi Tức Thấp (LIHEAP); trợ cấp chuyên chở hoặc giữ trẻ, cho tiền mặt dưới dạng TANF hoặc trợ cấp Nguyên Khoản coi sóc và phát triên thiếu nhi (CCDBG - The Child Care and Development Block Grant), và tiền cho khẩn cấp một lần dưới dạng TANF nhằm tránh nhu cầu trợ cấp tiền mặt tiếp diễn. Nhưng trợ cấp tiền mặt cho những mục tiêu đặc biệt này không nhằm bảo quản lợi tức do đó không đucợ coi là gánh nặng công cộng ( Trường hợp của NĐ – California và gia đình NH ở Texas.
CH9:Thông thường, trợ cấp tem thực phẩm được phát ra dưới dạng những phiếu bằng giấy hoặc bằng thẻ điện tử để xử dụng mua thực phẩm tại một số tiệm chỉ định, tuy nhiên, tại một số cùng, Tem Thực Phẩm đuợc phát ra bằng tiền mặt, những trợ cấp này có thể đucợ coi là gánh nặng công cộng không?
TL9: KHÔNG. Trợ cấp tem thực phẩm sẽ không được coi như gánh nặng công cộng, dù cấp phát bằng cách nào bởi vì đó không phải để bảo quản lợi tức.
CH10: Những trợ cấp y tế và ghi danh vào những chương trình bảo hiểm sức khỏe như Medicaid va CHIP có đucợ coi như gánh nặng công cộng không?
TL10: KHÔNG. trừ trường hợp ngoại nhận lệ thuộc CHÍNH vào chính phủ để sinh sống như việc nhập viện điều trị lâu dài để chính phủ phải đài thọ. Nói riêng, INS và Bộ Ngoại Giao sẽ không coi việc tham gia vào chương trình Medicaid hay CHIP hoặc những chương trình tương tự do tiểu bang đải thọ là gánh nặng công cộng.
Đánh máy: vha08 nguồn www.doj.ins.gov
Sau hơn 10 năm dài chờ đợi, chị An (x) cùng 3 đứa con nhỏ lên đường tới Mỹ định cư. Chồng chị phải ở lại Việt Nam điều trị bịnh, và sẽ sum họp sau cùng gia đình. Mấy ngày đầu quê hương mới, chị thấy cái gì cũng lạ, tình người thật là ấm cúng. Người thân quen, mỗi người dúi vào tay chị tí tiền gọi là mua quà cho các cháu. Ôi nước Mỹ quả là thiên đường. Có lẽ vì không quen với khí hậu quá lạnh của nước Mỹ, vài ngày sau đứa con nhỏ lên cơn sốt, chị bàn với người anh, cũng là người bảo trợ, đưa cháu đi bác sĩ. Người anh gạt ra, còn nói thêm rằng: “Con nít bị ốm là bình thường, cho nó viên thuốc cảm là xong, đi bác sĩ làm gì cho tốn tiền.” Bịnh của đứa bé ngày càng nặng, chị không nhịn được, bồng con tới bác sĩ, rồi đứa bé đuợc gởi tới bệnh viện nhi đồng điều trị. Vài tuần sau, người anh đưa cho chị xem cái hóa đơn gần $20 ngàn đô từ bệnh viện. Sau một hồi sỉ vả chị thậm tệ, đủ điều. Nào là cô không trả số tiền này thì tôi phải trả; nào là tôi đã ký thỏa thuân với sở di trú Mỹ, v.v. Chân ướt chân ráo, tiếng anh tiếng em đâu có biết gì, vì thương con chị đành cắn răng chịu đựng.
Cơ duyên đưa đẩy, chị tìm được tới tôi – tôi hướng dẫn và giải thích cho chị biết những quyền lợi và phúc lợi của những người di dân có con nhỏ, tôi khuyên chị nên nhờ người nhà dẫn tới bộ xã hội địa phương xin trợ cấp, chị trình bày với người anh và chị dâu ^%^)&@*_)()@*)*@)*_)$@(*)$(@+ và bốn mẹ con bị người bảo lãnh đuổi ra khỏi nhà, chỉ vì người bảo lãnh sợ bị liên lụy vì hiểu sai “Federal Means-Tested Public Benefits”. Câu chuyện của gia đình chị An(x) và hàng trăm câu chuyện tương tự của những gia đình Việt tới Mỹ định cư sau này, người thân trở thành thù hận nhau chỉ vì cái gọi là “Gánh năng trợ cấp công cộng”. Thành viên XNC có ít nhất là 3 người, bị người thân cấm hay hăm dọa xé đơn bảo trợ tài chính, chỉ vì có ý định/xin trợ cấp xã hội.
Bài viết này nhằm giúp các bạn, người bảo lãnh và người được bảo trợ hiểu rõ hơn về “Gánh nặng trợ cấp”
I – Federal Means Tested Public Benefit là gì?
Theo giải thích của USCIS các khoản trợ cấp dưới đây được xem là thuộc “Federal Means Tested Public Benefit”:
- Food stamps (Phiếu thực phầm)
- Supplemental Security Income (SSI) – (Lợi tức an sinh bổ sung)
- Medicaid (Bảo hiểm y tế)
- Temporary Assistance for Needy Families (TANF) –(Trợ cấp tạm thời cho những gia đình túng quẩn)
- State Child Health Insurance Program (CHIP) – (Bảo hiểu y tế cho trẻ em của tiểu bang)
- Emergency Medicaid –(Bảo hiểm y tế khẩn cấp)
- School lunches (Ăn trửa ở trường)
- Immunizations and treatment for communicable diseases (Chích ngừa và chữa trị những bịnh truyền nhiễm)
- Student assistance to attend colleges and institutions of higher learning – Hổ trợ tài chính bậc cao đẳng và đại học)
- Some kinds of foster care or adoption assistance – (Trợ cấp cho cha mẹ nuôi và con nuôi)
- Job training programs (Các chương trình huấn nghệ
- Head start – (Chương trình mầm non)
- Short-term, non-cash emergency relief – (Trơ cấp ngắn hạn và khẩn cấp không phải là tiền mặt)
Can the applicant use government assistance or public benefits?
If the sponsored immigrant uses federal means tested public benefits, the sponsor must repay the cost of the benefits.
If the sponsored immigrant uses federal means tested public benefits, the sponsor must repay the cost of the benefits.
Nếu người được bảo trợ xử dụng các trợ cấp công công thì người bảo lãnh sẽ phải hoàn lại số tiền của khoản trợ cấp đó.
Có lẽ từ câu hỏi và trả lời này trên website của USCIS, đã khiến các bạn hiểu SAI, gây nên cảnh gia đình bất hòa. Trước khi đặng lại bản chính cách giải thích và định nghĩa của Bộ Tư Pháp và Sở Di Trú Hoa Kỳ về vấn đề các khoản trợ cấp nào được xem là “Gánh Năng Công Cộng”, tôi xin thích theo sư hiểu biết của mình về cái gọi là “Federal Means Tested Public Benefit”. Nó chỉ là môt phương pháp để sở di trú và bộ ngoại giao Mỹ, xác định ai là người gánh năng và có thể sẽ trở thành gánh năng công cộng, có cho người này nhập cư hay không.
Gánh năng công cộng theo chuyển dịch của Bộ Tư Pháp và Sở Di Trú Hoa Kỳ từ tiếng Anh là “PUBLIC CHARGE”, và sau đây là bản chuyển dịch qua tiếng Việt của cơ quan này.
U.S. Department of Justice
IMMIGRATION AND NATURALIZATION SERCICE (5/29/1999)
QUESTIONS AND ANSWERS – Vietnamese – Public Charge
GÁNH NẶNG CÔNG CÔNG – Câu Hỏi (CH) và Trả Lời (TL)
TỔNG QUÁT
CH1: Tại sao Bộ Tư Pháp (DOJ) và Sở Di Trú và Nhập Tịch (INS) ban hành sự hướng dẫn tại địa phương và luật lệ dự thảo liên quan đến gánh nặng công cộng, và những văn kiện này gây ảnh hưởng gì?
TL1: DOJ va2 INS ban hành sự hướng dẫn và luật lệ dự thảo này nhằm giảm thiểu sự hiểu lầm của công chúng về ý nghĩa danh từ “gánh nặng công cộng” hiện không được định nghĩa trong luật di trú, và sự liên hệ của nó đối với việc nhận trợ cấp công cộng của liên bang, tiểu bang hoặc địa phương. Khi định nghĩa danh từ “gánh nặng công cộng”, DOJ muốn giảm thiểu những hậu quả tiêu cực về y tế công cộng do sự hiểu lầm hiện nay và cũng để cung cấp cho ngoại nhân sự hướng dẫn rõ ràng hơn đối với những loại trợ cấp công cộng, loại nào đucợ xác định, loại nào không được xác định, là gánh nặng công cộng. Sự hướng dẫn định nghĩa danh từ “gánh nặng công cộng” và đưa ra những ví dụ về loại rợ cấp nào được, loại trợ cấp nào không, được viên chức INS cứu xét về gánh nặng công cộng. Nó cũng tóm lược luật hiện hữu, liên quan đến gánh nặng công cộng và giải thích việc INS sẽ hành xử những điều khoản này như thế nào.
CH2: Theo luật di trú “Gánh nặng công cộng” là gì?
TL2: Một ngoại nhân, vào bất cứ lúc nào trở thành “gánh nặng công cộng” thì sẽ không đucợ xét cho nhập cảnh Hoa Kỳ, và không được cứu xét điều chỉnh quy chế để trở thành thường trú hợp pháp. Một ngoại nhân trở thành ganh nặng công cộng cũng có thể bị trục xuất khỏi Hoa Kỳ, dú rằng điều này rất ít xảy ra. Những điều khoản này nằm trong luật di trú trên 100 năm nay, và cuộc cải cách luật di trú và an sinh mới đây đã không thay đổi gì nhiều. Cả INS (bên HOa Kỳ) và bộ ngoại giao (ở ngoại quốc) có quyền xác định về “gánh nặng công cộng”
CH3: Danh từ “gánh nặng công cộng” được định nghĩa như thế nào, và khi nào sự định nghĩa này được áp dụng?
TL3: Sở INS công bố sự hướng dẫn và dự thảo quy luật, lần đầu tiên định nghĩa danh từ “gánh nặng công cộng”. Từ ngữ “gánh nặng công cộng” có nghĩa là một ngoại nhân đã trở thành (nhằm mục đích trục xuất) hoặc có thể trở thành (nhằm mục đích nhập cảnh/điều chỉnh) lệ thuộc vào chính quyền để sinh sống. Định nghĩa này có hiệu lục ngay lập tức. Như được thảo luận dưới đây, INS và Bộ Ngoại Giao sẽ xem xét việc nhận trợ cấp tiền mặc nhằm mục đích bảo quản lợi tức và nhập viện lâu dài do chính phủ đài thọ, để xác định yếu tố lệ thuộc vào chính phủ sinh sống
CH4:Theo quy luật “gánh nặng công cộng”, sở INS và Bộ Ngoại Giao làm sao quyết định người nào cho nhập cảnh hoặc đủ điều kiện điều chỉnh quy chế?
TL4: Trục xuất vì lý do gánh nặng công cộng rất hiếm xảy ra vì những tiêu chuẩn (duyệt xét) rất chặt chẽ. Theo Luật Di Trú và Quốc Tịch, một ngoại nhân có thể bị trục xuất nếu đương sự trở thành gánh nặng công cộng trong vòng 5 năm sau ngày vào Hoa Kỳ vì những lý do không đucợ khẳng định là đã phát sinh từ khi nhập cảnh. Chỉ nhận trợ cấp công cộng không thôi trong vòng 5 năm nhập cảnh không đủ yếu tố để trục xuất một ngoại nhân vì lý do gánh nặng công cộng. Một ngoại nhân chỉ có thể bị trục xuất nếu (1) tiểu bang hoặc một thể nhân nào khác của chính phủ cho trợ cấp đòi phải bồi hoàn nơi ngoại nhân hoặc một người nào khác có trách nhiệm (thí dụ người bảo lãnh trong Đơn Khai Hữu Thệ Bảo Trợ -( Affidavit of Support/đơn bảo trợ tài chính); (2) những viên chức hữu trách của chương trình (trợ cấp công cộng) ra lệnh bồi hoàn tiền; và (3) ngoại nhân hoặc một người nào khác có trách nhiệm, thí dụ người bảo lãnh của ngoại nhân, đã không bồi hoàn tiền. Cơ quan cho trợ cấp phải đòi bồi hoàn trong vòng 5 năm kể từ khi ngoại nhân nhập cảnh Hoa Kỳ, có án lệnh chung thẩm, đã làm đủ mọi cách thu hồi tiền theo án lệnh mà vẫn không có kết quả. Ngay cả trường hợp hội đủ các điều kiện trên đây, ngoiạ nhân đucợ phép chứng minh là những lý do đương sự trở thành gánh năng công cộng đã xảy ra sau khi đương sự nhập cảnh Hoa Kỳ. Nếu chứng minh đuợc thì đương sự không có thể bị trục xuất vì lý do gánh năng công cộng.
CH6: Những loại trợ cấp nào đucợ cứu xét khi quyết định ai là, hoặc có thể là gánh nặng công cộng?
TL6: Không phải tất cả trợ cấp do công quỹ đài thọ đều đucợ xác định khi quyết định ai LÀ hoặc CÓ THỂ LÀ gánh nặng công cộng. Cách hướng dẫn của INS và dự thảo quy luật minh định loại trợ cấp nào có thể hoặc không có thể được cưu xét khi xác định ai là gánh nặng công cộng. Muốn quyết định ngoại nhân nào đã trở thành hoặc có thể trở thành gánh nặng công cộng, INS và Bộ Ngoại Giao phải xem xét nếu đương sự đã trở thành và có thể trở thành người lệ thuộc CHÍNH và chính phủ để sinh sống hoặc là (1) nhận trợ cấp tiền mặt nhằm bảo quản lợi tức, hoặc (2) đã nhập viện để điều trị lâu dài do chính phủ đài thọ (chứkhông phải bị cầm tù vì phạm pháp). Điều trị ngắn hạn nhằm mục đích hồi phục sức khỏe thì không được coi là gánh nặng công cộng.
Những trợ cấp được coi là trợ cấp tiền mặt nhằm bảo quản lợi tức gồm có:
- Lợi tức an sinh bổ sung (SSI)
- Trợ cấp tạm thời cho gia đình túng quẩn (TANF), nhưng không kể trợ cấp tiền mặt bổ sung, không kể từ ngữ “trợ cấp” trong chương trình TANF hoặc bất cứ trợ cấp hoặc dịch vụ không có tiền mặt nào do chương trình TANF cấp;
- Những chương trình trợ cấp tiền mặt nhằm bảo quản lợi tức (thường được gọi là “Trợ Cấp Tổng Quát” của tiểu bang hoặc dưới một tên gọi nào khác).
Ngoài ra, những chi phí nhập viện lâu dài có thể do Medicaid hoặc chương trình nào khác đài tho, có thể được coi xét để quyết định yếu tố gánh nặng công cộng, nhưng KHÔNG đương nhiên xếp những người này vào loại gánh nặng công cộng. Như đã giải nghĩa ở trên, sự khỏa sát toàn bộ hoàn cảnh đuợc áp dụng để xác định cho việc nhập cảnh và điều chỉnh quy chế. Về việc trục xuất, tất cả các thủ tục mô tả trên được áp dụng.
CH7: Có những khoản rợ cấp nào mà ngoại nhân có thể nhận được một cách hợp pháp mà không phải lo lắng cơ quan INS và Bộ Ngoại Giao coi họ như gánh nặng công cộng không?
TL7: CO. Không phải tất cả những trợ cấp công cộng đều được INS hoặc Bộ Ngoại Giao coi xét khi quyết định một người là hoặc có thể rở thành gánh nặng công cộng. Tiêu điểm của gánh nặng công cộng là khoản trợ cấp tiền mặtđược xử dụng để bảo quản lợi tức và nhập viện lâu dài mà chính phủ phải đài thọ Thí dụ những trợ cấp KHÔNG được coi là gánh nặng công cộng gồm:
- Medicaid (Emergency medicaid) và bảo hiểm y tế khác và những dịch vụ ý tế (kể cả trợ cấp để tiêm chích ngừa bệnh (chích ngừa) và thhử nghiệm và điều trị những triệu chứng binh hay lây. xử dụng y viện, săn sóc hộ sản, vân vân....) ngoài việc nhập dưỡng bịnh lâu dài.
- Chương trình bảo hiểm sức khỏe thiếu nhi (CHIP)
- Những chươn trình dinh dưỡng kể cả tem thực phẩm (Food stamp), Chương Trình DInh Dưỡng Bổ Sung Đặc Biệt cho Pahí Nữ, Trẻ Sơ Sinh va Thiếu Niên (WIC), chương trình quốc gia cung cấp bữa điểm tâm và bữa trưa tại học đường, và những chương trình trợ cấp thực phẩm bổ sung và khẩn cấp. (Emergency Food Stamp)
- Trợ cấp mướn nhà ở (Rental assistant, housing program, section 8, low income housing etc.)
- Dịch vụ trông trẻ (Babysit)
- Trợ cấp năng lượng, như Chương Trình Trợ Cấp Năng Lương Tại Gia CHo Gia Đình Lợi Tức Thấp (LIHEAP)
- Trợ cấp khẩn cấp về thiên tai
- Trợ cấp cha mẹ nuôi và con nuôi (Foster care)
- Trợ cấp giáo dục kể cả những trợ cấp theo Luật Head Start (giáo dục mầm non), và trợ cấp tiểu học, trung học và cao học (nguyên văn là higher education, ý muốn nói tơi community college và undergradute – cao đẳng và cử nhân)
- Những chương trình huấn nghệ
- Những chương trình, những dịch vụ trong công đồng trợ cấp hiện vật (thì dụ nhà ăn công cộng, chương trình dạy cách đối phó và ngần ngừa khủng hoảng và nhà trú thần ngắn hạn.
CH8:INS và Bộ Ngoại Giao có xét đến tất cả các loại trợ cấp tiền mặt trong khi quyết định ai là gánh nặng công cộng hay không?
TL8: Không. INS và Bộ Ngoại chỉ xét đến những trợ cấp tiền mặt nhằm mục đích bảo quản lợi tức là gánh nặng công cộng. Có những chương trình trợ cấp tiền mặt cho những mục đích đặc biệt như: Chương Trình Trợ Cấp Năng Lương Tại Gia CHo Gia Đình Lợi Tức Thấp (LIHEAP); trợ cấp chuyên chở hoặc giữ trẻ, cho tiền mặt dưới dạng TANF hoặc trợ cấp Nguyên Khoản coi sóc và phát triên thiếu nhi (CCDBG - The Child Care and Development Block Grant), và tiền cho khẩn cấp một lần dưới dạng TANF nhằm tránh nhu cầu trợ cấp tiền mặt tiếp diễn. Nhưng trợ cấp tiền mặt cho những mục tiêu đặc biệt này không nhằm bảo quản lợi tức do đó không đucợ coi là gánh nặng công cộng ( Trường hợp của NĐ – California và gia đình NH ở Texas.
CH9:Thông thường, trợ cấp tem thực phẩm được phát ra dưới dạng những phiếu bằng giấy hoặc bằng thẻ điện tử để xử dụng mua thực phẩm tại một số tiệm chỉ định, tuy nhiên, tại một số cùng, Tem Thực Phẩm đuợc phát ra bằng tiền mặt, những trợ cấp này có thể đucợ coi là gánh nặng công cộng không?
TL9: KHÔNG. Trợ cấp tem thực phẩm sẽ không được coi như gánh nặng công cộng, dù cấp phát bằng cách nào bởi vì đó không phải để bảo quản lợi tức.
CH10: Những trợ cấp y tế và ghi danh vào những chương trình bảo hiểm sức khỏe như Medicaid va CHIP có đucợ coi như gánh nặng công cộng không?
TL10: KHÔNG. trừ trường hợp ngoại nhận lệ thuộc CHÍNH vào chính phủ để sinh sống như việc nhập viện điều trị lâu dài để chính phủ phải đài thọ. Nói riêng, INS và Bộ Ngoại Giao sẽ không coi việc tham gia vào chương trình Medicaid hay CHIP hoặc những chương trình tương tự do tiểu bang đải thọ là gánh nặng công cộng.
Đánh máy: vha08 nguồn www.doj.ins.gov
Chỉnh sửa cuối: