Hungviet 18 Mar 2009, 15:43
Bạn phải phân biệt từ chối (Denial) và thu hồi (Revocation). Đơn bảo lãnh bị từ chối nếu Sở Nhập tịch và Di trú không chấp thuận đơn bảo lãnh vì lý do người bảo lãnh không đủ điều kiện hay thiếu chứng từ. Sự từ chối này có thể là qua phỏng vấn hay không qua phỏng vấn với USCIS. Đơn bảo lãnh bị thu hồi trong trường hợp USCIS hủy bỏ một đơn bảo lãnh đã được chấp thuận sau khi nhận được sự kiện mới. Thu hồi thường xảy ra sau khi người được bảo lãnh phỏng vấn không thành công ở Đại sứ quán hay Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại nước ngoài.
Từ chối hay thu hồi xảy ra nhiều nhất trong những đơn bảo lãnh diện vợ chồng vì nhân viên di trú hay nhân viên lãnh sự nghi ngờ hôn nhân nhằm mục đích di dân. Một đơn bảo lãnh cũng có thể bị từ chối hay thu hồi trong những trường hợp khác, đặc biệt là trường hợp bảo lãnh con nuôi, bảo lãnh quan hệ cha dượng hay mẹ ghẻ, hay khi người cha không bao giờ kết hôn với mẹ của đứa trẻ.
Nếu đơn bảo lãnh bị Đại sứ quán hay Lãnh sự quán Hoa Kỳ ở nước ngoài gửi trở lại cho USCIS, người bảo lãnh có thể phải chờ từ 18 tháng đến 24 tháng trước khi USCIS quyết định phục hồi hay thu hồi đơn bảo lãnh. Sau khi nhận được đơn bảo lãnh gửi trở lại, USCIS sẽ gửi cho người bảo lãnh mẫu I-797C để báo với người bảo lãnh rằng đơn bảo lãnh đã gửi về USCIS để tái xét duyệt.
Sau khi đơn bảo lãnh gửi trở lại cho USCIS để tái xét duyệt hay khi người xét đơn thấy những thông tin sai trái, USCIS sẽ gửi cho người bảo lãnh tờ Notice of Intent to Revoke (tạm dịch là Thông báo ý định thu hồi) cho người bảo lãnh một thời gian (thông thường là 30 ngày) để nộp chứng từ chống lại việc thu hồi đơn I-130. Nếu người bảo lãnh thuyết phục được USCIS thì USCIS sẽ tái chấp thuận đơn bảo lãnh, Nếu đơn bảo lãnh được tái chấp thuận, người thân của người bảo lãnh ở nước ngoài phải làm đơn xin lại visa và chờ cuộc phỏng vấn khác. Nếu người bảo lãnh không thuyết phục được hay không trả lời USCIS trong thời gian hạn định, USCIS sẽ ra quyết định thu hồi đơn bảo lãnh trên mẫu I-292.
Nếu USCIS từ chối hay thu hồi đơn bảo lãnh I-130, họ sẽ thông báo cho người bảo lãnh lý do từ chối và quyền kháng cáo. Người bảo lãnh phải điền đơn kháng cáo trên mẫu EOIR-29. Trong trường hợp đơn bảo lãnh bị từ chối, người bảo lãnh có 30 ngày để kháng cáo kể từ ngày USCIS ra quyết định hay 33 ngày kể từ ngày người bảo lãnh nhận được quyết định bằng đường bưu điện. Trong trường hợp đơn bảo lãnh bị thu hồi, người bảo lãnh có 15 ngày để kháng cáo kể từ ngày USCIS ra quyết định hay 18 ngày kể từ ngày người bảo lãnh nhận được quyết định bằng đường bưu điện.
Mẫu đơn EOIR-29 phải nộp cho văn phòng USCIS nơi đã xét đơn bảo lãnh I-130. Nơi đây sẽ chuyển hồ sơ của người bảo lãnh cho Board of Immigration Appeals, viết tắt là BIA (tạm dịch là Hội đồng kháng cáo về di trú).
BIA không xét những chứng từ mới mà người bảo lãnh nộp để kháng cáo. Nếu người bảo lãnh nộp những chứng từ mới, người bảo lãnh phải viết thư xin USCIS và giải thích lý do tại sao người bảo lãnh không nộp những chứng từ này lúc trước.
Bạn phải phân biệt từ chối (Denial) và thu hồi (Revocation). Đơn bảo lãnh bị từ chối nếu Sở Nhập tịch và Di trú không chấp thuận đơn bảo lãnh vì lý do người bảo lãnh không đủ điều kiện hay thiếu chứng từ. Sự từ chối này có thể là qua phỏng vấn hay không qua phỏng vấn với USCIS. Đơn bảo lãnh bị thu hồi trong trường hợp USCIS hủy bỏ một đơn bảo lãnh đã được chấp thuận sau khi nhận được sự kiện mới. Thu hồi thường xảy ra sau khi người được bảo lãnh phỏng vấn không thành công ở Đại sứ quán hay Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại nước ngoài.
Từ chối hay thu hồi xảy ra nhiều nhất trong những đơn bảo lãnh diện vợ chồng vì nhân viên di trú hay nhân viên lãnh sự nghi ngờ hôn nhân nhằm mục đích di dân. Một đơn bảo lãnh cũng có thể bị từ chối hay thu hồi trong những trường hợp khác, đặc biệt là trường hợp bảo lãnh con nuôi, bảo lãnh quan hệ cha dượng hay mẹ ghẻ, hay khi người cha không bao giờ kết hôn với mẹ của đứa trẻ.
Nếu đơn bảo lãnh bị Đại sứ quán hay Lãnh sự quán Hoa Kỳ ở nước ngoài gửi trở lại cho USCIS, người bảo lãnh có thể phải chờ từ 18 tháng đến 24 tháng trước khi USCIS quyết định phục hồi hay thu hồi đơn bảo lãnh. Sau khi nhận được đơn bảo lãnh gửi trở lại, USCIS sẽ gửi cho người bảo lãnh mẫu I-797C để báo với người bảo lãnh rằng đơn bảo lãnh đã gửi về USCIS để tái xét duyệt.
Sau khi đơn bảo lãnh gửi trở lại cho USCIS để tái xét duyệt hay khi người xét đơn thấy những thông tin sai trái, USCIS sẽ gửi cho người bảo lãnh tờ Notice of Intent to Revoke (tạm dịch là Thông báo ý định thu hồi) cho người bảo lãnh một thời gian (thông thường là 30 ngày) để nộp chứng từ chống lại việc thu hồi đơn I-130. Nếu người bảo lãnh thuyết phục được USCIS thì USCIS sẽ tái chấp thuận đơn bảo lãnh, Nếu đơn bảo lãnh được tái chấp thuận, người thân của người bảo lãnh ở nước ngoài phải làm đơn xin lại visa và chờ cuộc phỏng vấn khác. Nếu người bảo lãnh không thuyết phục được hay không trả lời USCIS trong thời gian hạn định, USCIS sẽ ra quyết định thu hồi đơn bảo lãnh trên mẫu I-292.
Nếu USCIS từ chối hay thu hồi đơn bảo lãnh I-130, họ sẽ thông báo cho người bảo lãnh lý do từ chối và quyền kháng cáo. Người bảo lãnh phải điền đơn kháng cáo trên mẫu EOIR-29. Trong trường hợp đơn bảo lãnh bị từ chối, người bảo lãnh có 30 ngày để kháng cáo kể từ ngày USCIS ra quyết định hay 33 ngày kể từ ngày người bảo lãnh nhận được quyết định bằng đường bưu điện. Trong trường hợp đơn bảo lãnh bị thu hồi, người bảo lãnh có 15 ngày để kháng cáo kể từ ngày USCIS ra quyết định hay 18 ngày kể từ ngày người bảo lãnh nhận được quyết định bằng đường bưu điện.
Mẫu đơn EOIR-29 phải nộp cho văn phòng USCIS nơi đã xét đơn bảo lãnh I-130. Nơi đây sẽ chuyển hồ sơ của người bảo lãnh cho Board of Immigration Appeals, viết tắt là BIA (tạm dịch là Hội đồng kháng cáo về di trú).
BIA không xét những chứng từ mới mà người bảo lãnh nộp để kháng cáo. Nếu người bảo lãnh nộp những chứng từ mới, người bảo lãnh phải viết thư xin USCIS và giải thích lý do tại sao người bảo lãnh không nộp những chứng từ này lúc trước.