Ðề: Sống
Nhân nói về chủ đề "sống", xin gửi đến các bạn một vài cách sống của các vị tiền bối khi xưa:
舟中 CHU TRUNG
一葉扁舟湖海客 Nhất diệp thiên chu hồ hải khách
撐出葦行風搣搣 Xanh xuất vi hành phong thích thích
微茫四顧晚潮生 Vi mang tứ cố vãn triều sinh
江水連天一鷗白 Giang thủy liên thiên nhất âu bạch
玄光 Huyền Quang
GIỮA THUYỀN (1)
Một mảnh thuyền con hồ hải khách
Vượt khỏi bờ lau gió lất phất
Mịt mờ tứ phía ngọn triều dâng
Đáy nước bóng cò trời bát ngát.
(2)
Một mảnh thuyền con khách hải hồ
Vượt bờ lau lách gió lô xô
Mịt mờ bốn phía triều dâng sóng
Đáy nước trời in một cánh cò.
NĐC tạm dịch (18/01/2010)
Huyền Quang (玄光), 1254-1334, tên thật là Lý Đạo Tái (李道載), người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang. Nay là làng Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Học giỏi, đỗ cả thi hương, thi hội. Ông đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ (trạng nguyên) khoa thi năm 1272 hay 1274 và được bổ làm việc trong Viện Nội Hàn của triều đình, tiếp sư Bắc triều, nổi tiếng văn thơ. Sau này từ chức đi tu, theo Trần Nhân Tông lên Trúc Lâm. Là một Thiền sư Việt Nam, tổ thứ ba dòng Trúc Lâm Yên Tử. Ông là một nhà thơ lớn với nhiều bài thơ còn được lưu lại. Cùng với Trúc Lâm Đầu Đà Trần Nhân Tông và Pháp Loa, ông được xem là một Đại thiền sư của Việt Nam và người ta xem ông và hai vị nêu trên ngang hàng với sáu vị tổ của Thiền tông Trung Quốc hoặc 28 vị tổ của Thiền Ấn Độ.
山宇
SƠN VŨ
秋風午夜拂簷椏
Thu phong ngọ dạ phất thiềm nha,
山宇蕭然枕綠蘿
Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la.
已矣成禪心一片
Dĩ hĩ thành thiền tâm nhất phiến,
蛩聲唧唧為誰多
Cùng thanh tức tức vị thùy đa!
玄光
Huyền Quang
NHÀ GIỮA NÚI (1)
Gió thu khuya vắng thổi đầu song
Nhà núi buồn tênh gối cỏ bồng
Tâm đã nhập cùng thiền một khối
Cớ sao tiếng dế vọng vào phòng?
NĐC tạm dịch (17/01/2010).
(2)
Gió thu khuya vắng thổi qua thềm
Nhà núi buồn tênh gối cỏ mềm
Tâm đã vào thiền thành một khối
Dế vì ai vẫn hát thâu đêm?
NĐC tạm dịch (18/01/2010)
Pháp Loa (法螺), 1284-1330, là Thiền sư Việt Nam thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Sư là môn đệ của Trần Nhân Tông, là Tổ thứ hai của dòng thiền này. Sư là người ấn hành Đại tạng kinh tại Việt Nam khoảng năm 1329. Kinh này đã bị Trương Phụ thời nhà Minh phá huỷ, ngày nay không còn. Sư để lại nhiều tác phẩm Thiền học và luận thuyết về các kinh Nhập Lăng-già, Diệu pháp liên hoa, Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Năm 1330, Sư lâm bệnh nặng để lại bài kệ, viên tịch thọ 47 tuổi, được nhập tháp tại Thanh Mai Sơn.
萬緣裁斷一身閒
Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn
四十餘年夢幻間
Tứ thập dư niên mộng huyễn gian
珍重諸人休借問
Trân trọng chư nhân hưu tá vấn
那邊風月更邇寬
Na biên phong nguyệt cánh nhĩ khoan. .
法螺
Pháp Loa
Muôn duyên đã dứt một thân nhàn
Hơn bốn mươi năm mộng huyễn tan
Từ biệt bạn thôi đừng hỏi nữa
Gió trăng bến ấy cũng thênh thang!
NĐC tạm dịch (23/01/2010)
Trần Nhân Tông (1258-1308) tên thật Trần Khâm, là vị vua thứ ba của nhà Trần, sau vua cha Trần Thánh Tông và trước Trần Anh Tông, ở ngôi 15 năm (1278-1293), từng lãnh đạo 2 cuộc chống xâm lược Nguyên Mông (1285 và 1287). Sau khi nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, ông xuất gia tu thiền, và trở thành tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và có đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng hay Trúc Lâm Đầu Đà.
居 塵 樂 道 賦 - Cư trần lạc đạo phú
Kệ Vân:
居 陳 樂 道 且 隨 延
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
饑 則 飧 兮 困 則 眠
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
家 中 有 宝 休 尋 覓
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
對 鏡 無 心 莫 問 禪
Đối kính vô tâm mạc vấn thiền
竹林安子 第一祖 陳仁宗
Trúc lâm yên tử đệ nhất tổ Trần Nhân Tông
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền
Của báu trong nhà thôi khỏi kiếm
Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.
Thiền sư Thanh Từ dịch
Tạm dịch theo Thất Ngôn:
Vui đạo trên đời hãy tự nhiên
Đói ăn, mệt ngủ cứ theo duyên
Trong nhà có báu ngưng tìm kiếm
Cảnh thấy lòng không chớ hỏi thiền!
(NĐC 23/01/2010)
Tạm dịch theo Lục Bát:
Trên đời vui đạo tự nhiên,
Đói ăn mệt ngủ theo duyên mà làm.
Trong nhà sẵn báu thôi tầm,
Lòng không vướng cảnh, hỏi thiền cần chi!
(NĐC 23/01/2010)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士; 1230 - 1291) tên thật là Trần Tung (hay Trần Quốc Tung), hoàng tộc nhà Trần với tước hiệu Hưng Ninh Vương và là một thiền sư Việt Nam. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
江 湖 自 適
Giang hồ tự thích
小 艇 長 江 蕩 漾 浮
Tiểu đĩnh tràng giang đãng dạng phù
悠 揚 棹 撥 過 灘 頭
Du dương trạo bát quá than đầu
一 聲 何 處 新 來 雁
Nhất thanh hà xứ tân lai nhạn
陟 覺 秋 風 遍 十 洲
Trắc giác thu phong biến thập châu.
Thích giang hồ
Thuyền nhỏ trên sông lướt bấp bênh
Quẫy chèo cỡi sóng vượt qua ghềnh
Vẵng nghe tiếng nhạn nơi nào tới
Trong gió thu về lộng bốn phương.
曉 掛 孤 帆 凌 汗 漫
Hiểu quải cô phàm lăng hãn mạn
晚 橫 短 笛 弄 湮 波
Vãn hoành đoản địch lộng yên ba
謝 三 今 已 無 消 息
Tạ Tam kim dĩ vô tiêu tức
留 得 空 船 閣 淺 沙
Lưu đắc không thuyền các thiển sa
慧 中 上 士
Tuệ Trung Thượng Sỹ
Căng buồm sáng sớm đẫm mồ hôi
Thổi sáo chiều hôm giữa khói trời
Tin tức người xưa nay đã bặt
Thuyền không trên bãi cát chơi vơi.
(NĐC tạm dịch 23/01/2010)