Kính gởi các anh chị em trên diển đàn,
Xin gởi đến các bạn bài viết của tác giả Nguyên Nhung về những suy nghĩ khi sống trên đất Mỹ.
Mời quý vị đọc 1 câu chuyện về mùa Tạ Ơn- Nguyên Nhung
Nhớ về một muà lễ Tạ Ơn.
Tôi đến Mỹ vào một ngày mùa Đông năm 1992. Đối với tôi lúc ấy, cảm giác lạnh lùng trống vắng khi nhìn thấy những rừng cây trơ trụi hai bên xa lộ nằm thiếp ngủ , thành phố về đêm nhấp nháy những ánh đèn xanh đỏ dưới cơn mưa phùn muà đông rét mướt.
Buồn, cảm giác buồn thay cho bao háo hức thường ẩn hiện trong những giấc mơ khi còn ở Việt Nam, hiện tại một nước Mỹ buốt lạnh và buồn rầu khi chiếc xe chạy qua những đoạn đường ướt át. Lúc ấy đã gần nửa đêm, người bảo trợ dẫn cả nhà vào căn chung cư 1 phòng ngủ, ngổn ngang vài món cần thiết xin được cuả hội từ thiện. Nhà hàng xóm người Kampuchia đêm khuya vẫn còn thức, nghe có tiếng xê dịch ngoài hành lang vội mở cửa nhìn ra, rồi biết có người mới qua cũng tíu tít chạy ra hỏi thăm, bưng cho ngay thùng mì gói và hộp sữa.
Đối với chúng tôi lúc ấy tình người quý biết bao, nỗi nhớ quê còn đầy nhưng sự chia xẻ ấy khiến lòng tôi ấm lại. Phải đến năm sau, một năm dài làm quen với khí hậu và phong tục cuả nuớc Mỹ, tôi mới được hưởng không khí ấm áp cuả muà lễ Tạ Ơn vào tháng 11 năm sau.
Đẩy lùi vào quá khứ những ngày vất vả khó khăn ở quê nhà, cơ hội đã mở toang cánh cửa đón gia đình tôi hoà nhập vào đất nước tự do. Hình như quanh tôi có một điều khó diễn tả được khi cảm nhận được hai chữ tự do, những ngày đầu tôi vẫn tưởng mình đang nằm mơ, nhưng giấc mơ ấy đã thành sự thật, bước ban đầu còn lạc lõng, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ cuả nước Mỹ, mặc dù chưa đóng góp được gì cho xứ sở này.
Mỗi ngày, điều thích thú nhất với tôi là được đi học, ở cái tuổi ngoại tứ tuần mà còn cắp sách đến trường, tung tăng như một nữ sinh trung học làm tôi sống lại cảm giác thời thanh xuân mà tôi đánh mất từ lâu. Dù đấy chỉ là lớp học dạy ESL, dành cho những người chân ướt chân ráo mới được định cư tại Hoa Kỳ, nhưng không khí cuả một lớp học thì dường như ở đâu cũng vậy. Một, hai bác cao niên dở dang sự nghiệp, vài người trung niên, cùng những bạn trẻ từ nhiều quốc gia học chung một lớp. Chúng tôi đã thật sự đến gần với nhau qua những tâm sự bằng thứ tiếng Anh bập bẹ, kể cho nhau nghe về xứ sở cuả mình và lý do đến được xứ sở này, cảm thông với nhau về hoàn cảnh hiện tại, và niềm hy vọng tốt đẹp ở tương lai
Khi chuẩn bị muà lễ Tạ Ơn, ông thầy trẻ đã dạy cho chúng tôi học bài học muà Tạ Ơn, để hiểu tại sao xứ sở này người ta duy trì ngày Lễ Tạ Ơn hằng năm. Bài học “The First Thanksgiving” ngày hôm ấy là một đề tài hấp dẫn cho cả lớp, và tôi đã cố học thuộc lòng như cháo vài câu cảm ơn cho bữa tiệc trước ngày lễ Tạ Ơn năm đó.
“Theo câu chuyện kể lại rằng, một thời lâu lắm rồi có những người Pilgrims đầu tiên sống ở nước Anh, họ là những người bị bắt buộc theo giáo phái cuả nhà Vua, gọi là King’s Church, nhưng họ lại chỉ muốn được tự do cầu nguyện theo truyền thống thờ phượng riêng của họ mà thôi.
Những người Pilgrims này đã tìm cách rời nước Anh, và họ tìm đến một quốc gia nhỏ có tên là Holland, họ đã hoà nhập vào sinh hoạt tôn giáo cuả người địa phương, nhưng sự tư do cuả tôn giáo chỉ đúng nghĩa nhất khi mỗi người được thực sự cầu nguyện theo con đường mà họ thích. Người Holland được gọi là người Dutch, ngôn ngữ riêng cuả họ là tiếng Dutch. Không hoà nhập được, thế là một lần nữa, những người Pilgrims lại lên đường tìm về miền đất mới, đó là Châu Mỹ xa xôi.
Tại xứ sở này, họ có được sự tự do tôn giáo, con cháu họ được nói tiếng Anh. Năm 1620, năm đánh dấu 102 người Pilgrims, những người đầu tiên đi tìm đất mới rời Holland và tàu cuả họ đã cập bến Mayflower tại Massachussets, thời tiết khắc nghiệt với những cơn mưa và khí hậu lạnh lẽo, nhiều người đã nhiễm bệnh nên con tàu không thể tiếp tục lênh đênh trên biển.
MayFlowers là một hải cảng nhỏ cuả tiểu bang Massachussets, nơi dừng chân cuả những người Pilgrims kiệt lực vì sóng gió và khí hậu khắc nghiệt, họ bắt đầu cuộc đời mới tại một thành phồ nhỏ mang tên là Plymouth. Nhưng muà đông năm đó, khí hậu nơi này cũng vô cùng khắc nghiệt, nhiều người đã chết, họ sống lây lất bằng ít lương thực thật nhỏ nhoi, cầm cự mãi nếu không có sự giúp đỡ cuả những người địa phương, đó là những người da đỏ được gọi là người Indians.
Những người dân địa phương tốt bụng này đã hướng dẫn cho họ hòa nhập vào đời sống mới, dạy cho họ cách trồng trọt và bắt cá để làm thức ăn , chỉ cho họ cách trồng bắp, một loại ngũ cốc dễ ăn và dễ cất giữ để làm lương thực trong đời sống hằng ngày. Bắt đầu từ đấy, người di dân xây được nhà thờ cuả họ, xây dựng nhà cửa, và họ đã rất hạnh phúc khi có một đời sống no ấm trong một xứ sở tự do.
Tháng 11 năm 1620 là ngày lễ Tạ Ơn đầu tiên được hình thành cho cộng đồng người da đỏ bản xứ và người di dân đến từ nước Anh. Họ tổ chức một buổi tiệc Tạ Ơn để người Pilgrims có dịp bày tỏ lòng tri ơn cuả họ , cảm ơn Thượng Đế đã cho họ được gặp những người địa phương đầy lòng từ tâm, đã giúp họ một cuộc sống mới nơi mà họ đã phải đánh đổi bao nhiêu gian nan để tìm kiếm.”
Bài học về ngày Lễ Tạ Ơn cũng chấm dứt, tiếp theo đó mỗi người trong lớp đã bày tỏ lòng biết ơn cuả mình với những người xung quanh, mở đầu cho một party mang nhiều màu sắc dân tộc. Trước mấy ngày, giờ ra chơi những học sinh đã hỏi nhau về những món ăn mà mọi người mang đến lớp học mừng lễ Tạ Ơn, đây cũng là lần đầu tiên chúng tôi được làm quen với những món ăn truyền thống cuả từng dân tộc.
Martha người Mễ Tây Cơ còn trẻ và rất vui tính, trên tay cô là một khay thức ăn đậm đà hương vị Mễ Tây Cơ, bánh bột bắp cuộn món bò hầm với rau đậu ăn lạ miệng và khá ngon. Cô đến lớp đỏm dáng với chiếc váy hoa sặc sỡ, đôi chân như nhảy nhót theo điệu nhạc. Martha là người đã dạy tôi hát bản “Besame Mucho” bằng tiếng Spanish, mỗi dân tộc đều thể hiện dân tộc tính cuả mình qua các món ăn hay cách sinh hoạt, người Mễ Tây Cơ thích âm nhạc, thích hưởng thụ khác với tính chuyên cần, chăm chỉ và kín đáo cuả người Việt. Vốn tính trung thực, Martha giản dị chỉ cho những người mắt kém đi chọn một cái kính đeo mắt tương đối trong cửa hàng Walgreen, cô hóm hỉnh nói:
“ Mình chưa đủ tiền đến bác sĩ đo mắt và mua một cái kính đắt tiền, đến đó (ý cô nói là cửa hàng Walgreen) có vô khối các loại kính đeo mắt cho mình chọn lựa. Tạm thời thôi, mai mốt khi nói giỏi tiếng Anh, có việc làm tốt, các bạn tha hồ đi khám mắt và mua một cái kính hoàn hảo.”
À thì ra trong câu chuyện nhỏ, Martha đã đem đến cho mọi người ý nghiã cuả sự tương đối, trong khi tôi biết một vài người quen diện tỵ nạn, sau khi thoát khỏi cảnh nghèo ở quê hương,sang đây vẫn hay ta thán bất mãn cho rằng cuộc sống cuả họ vẫn chưa được những điều vừa ý. Đó là sự đòi hỏi một cách quá đáng,khi chính bản thân họ vẫn đang sống nhờ vào cộng đồng xã hội. Đáng lẽ thế này, đáng lẽ thế nọ, toàn những đáng lẽ để phàn nàn mà không nghĩ mình đang chịu ơn những người chả hề mắc nợ mình, họ cũng phải một nắng hai sương đi làm đóng thuế, và nhờ sự đóng góp cuả họ mà mình được san xẻ.
Trong bữa tiệc, bác Bích Huệ người Việt cao niên nhất cuả lớp học, đã làm nguyên một ổ bánh kem thật lớn, với hàng chữ Tạ Ơn viết thật nắn nót. Bác tiêu biểu cho một cụ già VN mà còn hiếu học, tinh thần Tạ Ơn và luôn nghĩ đến người khác đã được thể hiện dài dài trong đời bác. Gần 80 tuổi, bác vẫn mở lớp dạy làm bánh tại nhà, không hề nhận một đồng thù lao để dạy cho các người Việt trẻ tuổi thích trổ tài nội trợ khi có dịp họp mặt trong gia đình, hoặc cho những người cần học một nghề để làm cần câu cơm. Ai cũng ái ngại cho việc tuổi già vác ngà voi cuả bác, nhưng bác nói:
“ Tôi già rồi, không đóng góp được gì với đời. Bao nhiêu năm kể từ năm 75, dẫn cả nhà sang đây tỵ nạn, gia đình tôi đã làm lại từ đầu nhờ xứ sở này rộng rãi mở cửa cho chúng tôi vào. Nay con cháu đã thành đạt , tôi chịu ơn xứ sở này và cuả cuộc đời cũng nhiều, không biết cách gì để trả ơn, thôi thì đây cũng là một cách giúp chị em phụ nữ như tôi biết thêm nghề gì hay nghề nấy. Người nội trợ làm các loại bánh ngon cho gia đình thưởng thức, tiết kiệm được chút nào hay chút đó, người đang cần việc làm cũng có thể làm một nghề mới, tăng thêm ngân quỹ gia đình, đấy là điều làm cho tôi cảm thấy hạnh phúc.”
Bác thật hạnh phúc vì hiểu ý nghiã của sự cho đi là nhận lại, tôi luôn nhớ đến những gì bác làm cho mọi người và từ đó tôi nghiệm ra hai chữ tri ơn cuộc đời cuả bác. Tháng chín năm nay, bác đã thênh thang đi về bên kia thế giới, hành trang mang theo là những gì bác đã làm cho mọi người khi còn sống, ngày tang lễ cuả bác thật đông người đến đưa tiễn. Trong tấm ảnh, khuôn mặt hiền từ, đôn hậu của một cụ già suốt đời chỉ thích làm việc thiện vẫn nở nụ cười nhân từ với những bông hồng trắng muốt.
Những người Mỹ tôi quen còn dạy cho tôi một bài học về sự tự tin và lạc quan trong cuộc sống cuả họ. Khi về già , họ không ngồi ta thán sự hẩm hiu cuả mình trong bốn bức tường, không bi quan sầu luỵ quá về bệnh tật. Viết đến đây tôi lại nhớ đến bà Naomi, một phụ nữ da trắng khuôn mặt tròn, da nhăn nheo xếp lớp với thời gian, tuổi già đã làm cho bà nhỏ bé lại nhưng toàn khuôn mặt toát lên một vẻ yêu đời tha thiết.Thế mà bà đang bị ung thư thời kỳ cuối cùng đấy, nhưng tôi không thể nào biết được người đàn bà cao niên ấy đang phải chống chỏi với căn bệnh trầm kha này như thế nào.
Bữa ăn cuối cùng với bà NaoMi cũng vào dịp lễ Tạ Ơn, bác Huệ và tôi được mời khi cùng đi với nhóm bạn già cuả bà NaoMi đến thăm một nhà dưỡng lão. Viện Dưỡng Lão vào một ngày muà đông buồn ảm đạm, một cụ gìa ú ớ gọi tên hết người này đến người khác, bà đang lẫn lộn dĩ vãng với hiện tại. Một cụ ông đẩy chiếc xe lăn cho bà vợ tóc xoã rũ rượi, ông nói:
“ Mỗi ngày, tôi đi bộ 3 miles từ nhà đến đây để gần gũi vợ tôi, dù bà không nhớ tôi là ai, nhưng tôi thì nhớ bà là vợ mình.”
Một câu nói thật hay mà đâu cần phải tìm trong những lời hay ý đẹp cuả các vĩ nhân trên thế giới. Chưa hết, tôi gặp một cô giáo già hơn 80 tuổi, có lẽ bà là ngưởi tỉnh táo nhất trong những người già ở nursing-home này. Bà luôn miệng ca hát, toàn những bản nhạc quen thuộc trong muà Giáng Sinh. Tôi hỏi bà có buồn không khi sống ở đây, bà bảo bà không buồn, vì ít ra bà cũng còn thấy mình đang hạnh phúc, tỉnh táo hơn nhiều người khác. Trong phần văn nghệ giúp vui, bà Nao Mi đóng vai một đưá trẻ con, bà giả giọng eo éo nên ai cũng phải bật cười. Bà thích ăn những món ăn VN và hỏi cách nấu, rồi hỏi tôi về một bài hát Việt Nam bà nghe được trong nhà thờ, khi tôi hát, bà ư ử hát theo và khen đây là một bài thánh ca mang đậm đà tính cách dân tộc.
Vật lộn với thần chết đến giây phút cuối cùng, lạc quan yêu đời để lướt qua những cơn đau là tính lạc quan cuả bà NaoMi. Một ngày thứ bảy cùng năm đó, tôi lại đến dự tang lễ tiễn bà NaoMi trong ngôi thánh đường êm ả, nhìn tấm ảnh nụ cười bà thật rạng rỡ.
Những người bạn cao niên này còn dạy cho tôi tinh thần tự nguyện làm công tác xã hội, không rụt rè vì khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Bà Linda gầy gò ngày ngày lái xe đến trường tiểu học để sắp xếp những cuốn sách cuả các em học sinh bừa bãi trên bàn vào các kệ sách cuả thư viện, dạy cho các em học tính ngăn nắp và biết cách giữ gìn những cuốn sách. Một hôm đang lơn tơn tìm gặp cô giáo của con tôi thì bất ngờ bị chận lại bởi một giọng trẻ con thật dễ thương:
“ Bà có cần tôi giúp gì không?”
Ôi chao! Chắc chỉ có xứ sở này trường học mới dạy cho trẻ con câu hỏi ấy, nó đơn sơ và đầy tình người, được thốt ra từ đôi môi hồng cuả một cô bé 7,8 tuổi trong ngôi trường tiểu học, khiến tôi phải suy nghĩ và cảm động rồi tự hỏi, đến khi nào tôi mới biết hỏi một ai đó câu này mà giúp đỡ họ.
Đã gần 20 năm, những kỷ niệm về muà Tạ Ơn đầu tiên trên nước Mỹ vẫn còn nằm nguyên trong trí nhớ cuả tôi. Tôi yêu đất nước này biết bao, một lần trở về chốn cũ , khi đi qua công viên có những tàn cây cổ thụ, loanh quanh trên dốc cỏ xanh, thấp thoáng trong tôi là hình ảnh những người một thời quen biết. Xin cảm ơn người, cảm ơn đời …
Nguyên Nhung
( muà Tạ Ơn 2010)
Xin gởi đến các bạn bài viết của tác giả Nguyên Nhung về những suy nghĩ khi sống trên đất Mỹ.
Mời quý vị đọc 1 câu chuyện về mùa Tạ Ơn- Nguyên Nhung
Nhớ về một muà lễ Tạ Ơn.
Tôi đến Mỹ vào một ngày mùa Đông năm 1992. Đối với tôi lúc ấy, cảm giác lạnh lùng trống vắng khi nhìn thấy những rừng cây trơ trụi hai bên xa lộ nằm thiếp ngủ , thành phố về đêm nhấp nháy những ánh đèn xanh đỏ dưới cơn mưa phùn muà đông rét mướt.
Buồn, cảm giác buồn thay cho bao háo hức thường ẩn hiện trong những giấc mơ khi còn ở Việt Nam, hiện tại một nước Mỹ buốt lạnh và buồn rầu khi chiếc xe chạy qua những đoạn đường ướt át. Lúc ấy đã gần nửa đêm, người bảo trợ dẫn cả nhà vào căn chung cư 1 phòng ngủ, ngổn ngang vài món cần thiết xin được cuả hội từ thiện. Nhà hàng xóm người Kampuchia đêm khuya vẫn còn thức, nghe có tiếng xê dịch ngoài hành lang vội mở cửa nhìn ra, rồi biết có người mới qua cũng tíu tít chạy ra hỏi thăm, bưng cho ngay thùng mì gói và hộp sữa.
Đối với chúng tôi lúc ấy tình người quý biết bao, nỗi nhớ quê còn đầy nhưng sự chia xẻ ấy khiến lòng tôi ấm lại. Phải đến năm sau, một năm dài làm quen với khí hậu và phong tục cuả nuớc Mỹ, tôi mới được hưởng không khí ấm áp cuả muà lễ Tạ Ơn vào tháng 11 năm sau.
Đẩy lùi vào quá khứ những ngày vất vả khó khăn ở quê nhà, cơ hội đã mở toang cánh cửa đón gia đình tôi hoà nhập vào đất nước tự do. Hình như quanh tôi có một điều khó diễn tả được khi cảm nhận được hai chữ tự do, những ngày đầu tôi vẫn tưởng mình đang nằm mơ, nhưng giấc mơ ấy đã thành sự thật, bước ban đầu còn lạc lõng, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ cuả nước Mỹ, mặc dù chưa đóng góp được gì cho xứ sở này.
Mỗi ngày, điều thích thú nhất với tôi là được đi học, ở cái tuổi ngoại tứ tuần mà còn cắp sách đến trường, tung tăng như một nữ sinh trung học làm tôi sống lại cảm giác thời thanh xuân mà tôi đánh mất từ lâu. Dù đấy chỉ là lớp học dạy ESL, dành cho những người chân ướt chân ráo mới được định cư tại Hoa Kỳ, nhưng không khí cuả một lớp học thì dường như ở đâu cũng vậy. Một, hai bác cao niên dở dang sự nghiệp, vài người trung niên, cùng những bạn trẻ từ nhiều quốc gia học chung một lớp. Chúng tôi đã thật sự đến gần với nhau qua những tâm sự bằng thứ tiếng Anh bập bẹ, kể cho nhau nghe về xứ sở cuả mình và lý do đến được xứ sở này, cảm thông với nhau về hoàn cảnh hiện tại, và niềm hy vọng tốt đẹp ở tương lai
Khi chuẩn bị muà lễ Tạ Ơn, ông thầy trẻ đã dạy cho chúng tôi học bài học muà Tạ Ơn, để hiểu tại sao xứ sở này người ta duy trì ngày Lễ Tạ Ơn hằng năm. Bài học “The First Thanksgiving” ngày hôm ấy là một đề tài hấp dẫn cho cả lớp, và tôi đã cố học thuộc lòng như cháo vài câu cảm ơn cho bữa tiệc trước ngày lễ Tạ Ơn năm đó.
“Theo câu chuyện kể lại rằng, một thời lâu lắm rồi có những người Pilgrims đầu tiên sống ở nước Anh, họ là những người bị bắt buộc theo giáo phái cuả nhà Vua, gọi là King’s Church, nhưng họ lại chỉ muốn được tự do cầu nguyện theo truyền thống thờ phượng riêng của họ mà thôi.
Những người Pilgrims này đã tìm cách rời nước Anh, và họ tìm đến một quốc gia nhỏ có tên là Holland, họ đã hoà nhập vào sinh hoạt tôn giáo cuả người địa phương, nhưng sự tư do cuả tôn giáo chỉ đúng nghĩa nhất khi mỗi người được thực sự cầu nguyện theo con đường mà họ thích. Người Holland được gọi là người Dutch, ngôn ngữ riêng cuả họ là tiếng Dutch. Không hoà nhập được, thế là một lần nữa, những người Pilgrims lại lên đường tìm về miền đất mới, đó là Châu Mỹ xa xôi.
Tại xứ sở này, họ có được sự tự do tôn giáo, con cháu họ được nói tiếng Anh. Năm 1620, năm đánh dấu 102 người Pilgrims, những người đầu tiên đi tìm đất mới rời Holland và tàu cuả họ đã cập bến Mayflower tại Massachussets, thời tiết khắc nghiệt với những cơn mưa và khí hậu lạnh lẽo, nhiều người đã nhiễm bệnh nên con tàu không thể tiếp tục lênh đênh trên biển.
MayFlowers là một hải cảng nhỏ cuả tiểu bang Massachussets, nơi dừng chân cuả những người Pilgrims kiệt lực vì sóng gió và khí hậu khắc nghiệt, họ bắt đầu cuộc đời mới tại một thành phồ nhỏ mang tên là Plymouth. Nhưng muà đông năm đó, khí hậu nơi này cũng vô cùng khắc nghiệt, nhiều người đã chết, họ sống lây lất bằng ít lương thực thật nhỏ nhoi, cầm cự mãi nếu không có sự giúp đỡ cuả những người địa phương, đó là những người da đỏ được gọi là người Indians.
Những người dân địa phương tốt bụng này đã hướng dẫn cho họ hòa nhập vào đời sống mới, dạy cho họ cách trồng trọt và bắt cá để làm thức ăn , chỉ cho họ cách trồng bắp, một loại ngũ cốc dễ ăn và dễ cất giữ để làm lương thực trong đời sống hằng ngày. Bắt đầu từ đấy, người di dân xây được nhà thờ cuả họ, xây dựng nhà cửa, và họ đã rất hạnh phúc khi có một đời sống no ấm trong một xứ sở tự do.
Tháng 11 năm 1620 là ngày lễ Tạ Ơn đầu tiên được hình thành cho cộng đồng người da đỏ bản xứ và người di dân đến từ nước Anh. Họ tổ chức một buổi tiệc Tạ Ơn để người Pilgrims có dịp bày tỏ lòng tri ơn cuả họ , cảm ơn Thượng Đế đã cho họ được gặp những người địa phương đầy lòng từ tâm, đã giúp họ một cuộc sống mới nơi mà họ đã phải đánh đổi bao nhiêu gian nan để tìm kiếm.”
Bài học về ngày Lễ Tạ Ơn cũng chấm dứt, tiếp theo đó mỗi người trong lớp đã bày tỏ lòng biết ơn cuả mình với những người xung quanh, mở đầu cho một party mang nhiều màu sắc dân tộc. Trước mấy ngày, giờ ra chơi những học sinh đã hỏi nhau về những món ăn mà mọi người mang đến lớp học mừng lễ Tạ Ơn, đây cũng là lần đầu tiên chúng tôi được làm quen với những món ăn truyền thống cuả từng dân tộc.
Martha người Mễ Tây Cơ còn trẻ và rất vui tính, trên tay cô là một khay thức ăn đậm đà hương vị Mễ Tây Cơ, bánh bột bắp cuộn món bò hầm với rau đậu ăn lạ miệng và khá ngon. Cô đến lớp đỏm dáng với chiếc váy hoa sặc sỡ, đôi chân như nhảy nhót theo điệu nhạc. Martha là người đã dạy tôi hát bản “Besame Mucho” bằng tiếng Spanish, mỗi dân tộc đều thể hiện dân tộc tính cuả mình qua các món ăn hay cách sinh hoạt, người Mễ Tây Cơ thích âm nhạc, thích hưởng thụ khác với tính chuyên cần, chăm chỉ và kín đáo cuả người Việt. Vốn tính trung thực, Martha giản dị chỉ cho những người mắt kém đi chọn một cái kính đeo mắt tương đối trong cửa hàng Walgreen, cô hóm hỉnh nói:
“ Mình chưa đủ tiền đến bác sĩ đo mắt và mua một cái kính đắt tiền, đến đó (ý cô nói là cửa hàng Walgreen) có vô khối các loại kính đeo mắt cho mình chọn lựa. Tạm thời thôi, mai mốt khi nói giỏi tiếng Anh, có việc làm tốt, các bạn tha hồ đi khám mắt và mua một cái kính hoàn hảo.”
À thì ra trong câu chuyện nhỏ, Martha đã đem đến cho mọi người ý nghiã cuả sự tương đối, trong khi tôi biết một vài người quen diện tỵ nạn, sau khi thoát khỏi cảnh nghèo ở quê hương,sang đây vẫn hay ta thán bất mãn cho rằng cuộc sống cuả họ vẫn chưa được những điều vừa ý. Đó là sự đòi hỏi một cách quá đáng,khi chính bản thân họ vẫn đang sống nhờ vào cộng đồng xã hội. Đáng lẽ thế này, đáng lẽ thế nọ, toàn những đáng lẽ để phàn nàn mà không nghĩ mình đang chịu ơn những người chả hề mắc nợ mình, họ cũng phải một nắng hai sương đi làm đóng thuế, và nhờ sự đóng góp cuả họ mà mình được san xẻ.
Trong bữa tiệc, bác Bích Huệ người Việt cao niên nhất cuả lớp học, đã làm nguyên một ổ bánh kem thật lớn, với hàng chữ Tạ Ơn viết thật nắn nót. Bác tiêu biểu cho một cụ già VN mà còn hiếu học, tinh thần Tạ Ơn và luôn nghĩ đến người khác đã được thể hiện dài dài trong đời bác. Gần 80 tuổi, bác vẫn mở lớp dạy làm bánh tại nhà, không hề nhận một đồng thù lao để dạy cho các người Việt trẻ tuổi thích trổ tài nội trợ khi có dịp họp mặt trong gia đình, hoặc cho những người cần học một nghề để làm cần câu cơm. Ai cũng ái ngại cho việc tuổi già vác ngà voi cuả bác, nhưng bác nói:
“ Tôi già rồi, không đóng góp được gì với đời. Bao nhiêu năm kể từ năm 75, dẫn cả nhà sang đây tỵ nạn, gia đình tôi đã làm lại từ đầu nhờ xứ sở này rộng rãi mở cửa cho chúng tôi vào. Nay con cháu đã thành đạt , tôi chịu ơn xứ sở này và cuả cuộc đời cũng nhiều, không biết cách gì để trả ơn, thôi thì đây cũng là một cách giúp chị em phụ nữ như tôi biết thêm nghề gì hay nghề nấy. Người nội trợ làm các loại bánh ngon cho gia đình thưởng thức, tiết kiệm được chút nào hay chút đó, người đang cần việc làm cũng có thể làm một nghề mới, tăng thêm ngân quỹ gia đình, đấy là điều làm cho tôi cảm thấy hạnh phúc.”
Bác thật hạnh phúc vì hiểu ý nghiã của sự cho đi là nhận lại, tôi luôn nhớ đến những gì bác làm cho mọi người và từ đó tôi nghiệm ra hai chữ tri ơn cuộc đời cuả bác. Tháng chín năm nay, bác đã thênh thang đi về bên kia thế giới, hành trang mang theo là những gì bác đã làm cho mọi người khi còn sống, ngày tang lễ cuả bác thật đông người đến đưa tiễn. Trong tấm ảnh, khuôn mặt hiền từ, đôn hậu của một cụ già suốt đời chỉ thích làm việc thiện vẫn nở nụ cười nhân từ với những bông hồng trắng muốt.
Những người Mỹ tôi quen còn dạy cho tôi một bài học về sự tự tin và lạc quan trong cuộc sống cuả họ. Khi về già , họ không ngồi ta thán sự hẩm hiu cuả mình trong bốn bức tường, không bi quan sầu luỵ quá về bệnh tật. Viết đến đây tôi lại nhớ đến bà Naomi, một phụ nữ da trắng khuôn mặt tròn, da nhăn nheo xếp lớp với thời gian, tuổi già đã làm cho bà nhỏ bé lại nhưng toàn khuôn mặt toát lên một vẻ yêu đời tha thiết.Thế mà bà đang bị ung thư thời kỳ cuối cùng đấy, nhưng tôi không thể nào biết được người đàn bà cao niên ấy đang phải chống chỏi với căn bệnh trầm kha này như thế nào.
Bữa ăn cuối cùng với bà NaoMi cũng vào dịp lễ Tạ Ơn, bác Huệ và tôi được mời khi cùng đi với nhóm bạn già cuả bà NaoMi đến thăm một nhà dưỡng lão. Viện Dưỡng Lão vào một ngày muà đông buồn ảm đạm, một cụ gìa ú ớ gọi tên hết người này đến người khác, bà đang lẫn lộn dĩ vãng với hiện tại. Một cụ ông đẩy chiếc xe lăn cho bà vợ tóc xoã rũ rượi, ông nói:
“ Mỗi ngày, tôi đi bộ 3 miles từ nhà đến đây để gần gũi vợ tôi, dù bà không nhớ tôi là ai, nhưng tôi thì nhớ bà là vợ mình.”
Một câu nói thật hay mà đâu cần phải tìm trong những lời hay ý đẹp cuả các vĩ nhân trên thế giới. Chưa hết, tôi gặp một cô giáo già hơn 80 tuổi, có lẽ bà là ngưởi tỉnh táo nhất trong những người già ở nursing-home này. Bà luôn miệng ca hát, toàn những bản nhạc quen thuộc trong muà Giáng Sinh. Tôi hỏi bà có buồn không khi sống ở đây, bà bảo bà không buồn, vì ít ra bà cũng còn thấy mình đang hạnh phúc, tỉnh táo hơn nhiều người khác. Trong phần văn nghệ giúp vui, bà Nao Mi đóng vai một đưá trẻ con, bà giả giọng eo éo nên ai cũng phải bật cười. Bà thích ăn những món ăn VN và hỏi cách nấu, rồi hỏi tôi về một bài hát Việt Nam bà nghe được trong nhà thờ, khi tôi hát, bà ư ử hát theo và khen đây là một bài thánh ca mang đậm đà tính cách dân tộc.
Vật lộn với thần chết đến giây phút cuối cùng, lạc quan yêu đời để lướt qua những cơn đau là tính lạc quan cuả bà NaoMi. Một ngày thứ bảy cùng năm đó, tôi lại đến dự tang lễ tiễn bà NaoMi trong ngôi thánh đường êm ả, nhìn tấm ảnh nụ cười bà thật rạng rỡ.
Những người bạn cao niên này còn dạy cho tôi tinh thần tự nguyện làm công tác xã hội, không rụt rè vì khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Bà Linda gầy gò ngày ngày lái xe đến trường tiểu học để sắp xếp những cuốn sách cuả các em học sinh bừa bãi trên bàn vào các kệ sách cuả thư viện, dạy cho các em học tính ngăn nắp và biết cách giữ gìn những cuốn sách. Một hôm đang lơn tơn tìm gặp cô giáo của con tôi thì bất ngờ bị chận lại bởi một giọng trẻ con thật dễ thương:
“ Bà có cần tôi giúp gì không?”
Ôi chao! Chắc chỉ có xứ sở này trường học mới dạy cho trẻ con câu hỏi ấy, nó đơn sơ và đầy tình người, được thốt ra từ đôi môi hồng cuả một cô bé 7,8 tuổi trong ngôi trường tiểu học, khiến tôi phải suy nghĩ và cảm động rồi tự hỏi, đến khi nào tôi mới biết hỏi một ai đó câu này mà giúp đỡ họ.
Đã gần 20 năm, những kỷ niệm về muà Tạ Ơn đầu tiên trên nước Mỹ vẫn còn nằm nguyên trong trí nhớ cuả tôi. Tôi yêu đất nước này biết bao, một lần trở về chốn cũ , khi đi qua công viên có những tàn cây cổ thụ, loanh quanh trên dốc cỏ xanh, thấp thoáng trong tôi là hình ảnh những người một thời quen biết. Xin cảm ơn người, cảm ơn đời …
Nguyên Nhung
( muà Tạ Ơn 2010)