Lễ Tạ Ơn

ngochappy

Cựu Ban điều hành
#1
Kính gởi các anh chị em trên diển đàn,

Xin gởi đến các bạn bài viết của tác giả Nguyên Nhung về những suy nghĩ khi sống trên đất Mỹ.

Mời quý vị đọc 1 câu chuyện về mùa Tạ Ơn- Nguyên Nhung
Nhớ về một muà lễ Tạ Ơn.

Tôi đến Mỹ vào một ngày mùa Đông năm 1992. Đối với tôi lúc ấy, cảm giác lạnh lùng trống vắng khi nhìn thấy những rừng cây trơ trụi hai bên xa lộ nằm thiếp ngủ , thành phố về đêm nhấp nháy những ánh đèn xanh đỏ dưới cơn mưa phùn muà đông rét mướt.

Buồn, cảm giác buồn thay cho bao háo hức thường ẩn hiện trong những giấc mơ khi còn ở Việt Nam, hiện tại một nước Mỹ buốt lạnh và buồn rầu khi chiếc xe chạy qua những đoạn đường ướt át. Lúc ấy đã gần nửa đêm, người bảo trợ dẫn cả nhà vào căn chung cư 1 phòng ngủ, ngổn ngang vài món cần thiết xin được cuả hội từ thiện. Nhà hàng xóm người Kampuchia đêm khuya vẫn còn thức, nghe có tiếng xê dịch ngoài hành lang vội mở cửa nhìn ra, rồi biết có người mới qua cũng tíu tít chạy ra hỏi thăm, bưng cho ngay thùng mì gói và hộp sữa.

Đối với chúng tôi lúc ấy tình người quý biết bao, nỗi nhớ quê còn đầy nhưng sự chia xẻ ấy khiến lòng tôi ấm lại. Phải đến năm sau, một năm dài làm quen với khí hậu và phong tục cuả nuớc Mỹ, tôi mới được hưởng không khí ấm áp cuả muà lễ Tạ Ơn vào tháng 11 năm sau.

Đẩy lùi vào quá khứ những ngày vất vả khó khăn ở quê nhà, cơ hội đã mở toang cánh cửa đón gia đình tôi hoà nhập vào đất nước tự do. Hình như quanh tôi có một điều khó diễn tả được khi cảm nhận được hai chữ tự do, những ngày đầu tôi vẫn tưởng mình đang nằm mơ, nhưng giấc mơ ấy đã thành sự thật, bước ban đầu còn lạc lõng, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ cuả nước Mỹ, mặc dù chưa đóng góp được gì cho xứ sở này.

Mỗi ngày, điều thích thú nhất với tôi là được đi học, ở cái tuổi ngoại tứ tuần mà còn cắp sách đến trường, tung tăng như một nữ sinh trung học làm tôi sống lại cảm giác thời thanh xuân mà tôi đánh mất từ lâu. Dù đấy chỉ là lớp học dạy ESL, dành cho những người chân ướt chân ráo mới được định cư tại Hoa Kỳ, nhưng không khí cuả một lớp học thì dường như ở đâu cũng vậy. Một, hai bác cao niên dở dang sự nghiệp, vài người trung niên, cùng những bạn trẻ từ nhiều quốc gia học chung một lớp. Chúng tôi đã thật sự đến gần với nhau qua những tâm sự bằng thứ tiếng Anh bập bẹ, kể cho nhau nghe về xứ sở cuả mình và lý do đến được xứ sở này, cảm thông với nhau về hoàn cảnh hiện tại, và niềm hy vọng tốt đẹp ở tương lai

Khi chuẩn bị muà lễ Tạ Ơn, ông thầy trẻ đã dạy cho chúng tôi học bài học muà Tạ Ơn, để hiểu tại sao xứ sở này người ta duy trì ngày Lễ Tạ Ơn hằng năm. Bài học “The First Thanksgiving” ngày hôm ấy là một đề tài hấp dẫn cho cả lớp, và tôi đã cố học thuộc lòng như cháo vài câu cảm ơn cho bữa tiệc trước ngày lễ Tạ Ơn năm đó.
“Theo câu chuyện kể lại rằng, một thời lâu lắm rồi có những người Pilgrims đầu tiên sống ở nước Anh, họ là những người bị bắt buộc theo giáo phái cuả nhà Vua, gọi là King’s Church, nhưng họ lại chỉ muốn được tự do cầu nguyện theo truyền thống thờ phượng riêng của họ mà thôi.

Những người Pilgrims này đã tìm cách rời nước Anh, và họ tìm đến một quốc gia nhỏ có tên là Holland, họ đã hoà nhập vào sinh hoạt tôn giáo cuả người địa phương, nhưng sự tư do cuả tôn giáo chỉ đúng nghĩa nhất khi mỗi người được thực sự cầu nguyện theo con đường mà họ thích. Người Holland được gọi là người Dutch, ngôn ngữ riêng cuả họ là tiếng Dutch. Không hoà nhập được, thế là một lần nữa, những người Pilgrims lại lên đường tìm về miền đất mới, đó là Châu Mỹ xa xôi.

Tại xứ sở này, họ có được sự tự do tôn giáo, con cháu họ được nói tiếng Anh. Năm 1620, năm đánh dấu 102 người Pilgrims, những người đầu tiên đi tìm đất mới rời Holland và tàu cuả họ đã cập bến Mayflower tại Massachussets, thời tiết khắc nghiệt với những cơn mưa và khí hậu lạnh lẽo, nhiều người đã nhiễm bệnh nên con tàu không thể tiếp tục lênh đênh trên biển.

MayFlowers là một hải cảng nhỏ cuả tiểu bang Massachussets, nơi dừng chân cuả những người Pilgrims kiệt lực vì sóng gió và khí hậu khắc nghiệt, họ bắt đầu cuộc đời mới tại một thành phồ nhỏ mang tên là Plymouth. Nhưng muà đông năm đó, khí hậu nơi này cũng vô cùng khắc nghiệt, nhiều người đã chết, họ sống lây lất bằng ít lương thực thật nhỏ nhoi, cầm cự mãi nếu không có sự giúp đỡ cuả những người địa phương, đó là những người da đỏ được gọi là người Indians.

Những người dân địa phương tốt bụng này đã hướng dẫn cho họ hòa nhập vào đời sống mới, dạy cho họ cách trồng trọt và bắt cá để làm thức ăn , chỉ cho họ cách trồng bắp, một loại ngũ cốc dễ ăn và dễ cất giữ để làm lương thực trong đời sống hằng ngày. Bắt đầu từ đấy, người di dân xây được nhà thờ cuả họ, xây dựng nhà cửa, và họ đã rất hạnh phúc khi có một đời sống no ấm trong một xứ sở tự do.

Tháng 11 năm 1620 là ngày lễ Tạ Ơn đầu tiên được hình thành cho cộng đồng người da đỏ bản xứ và người di dân đến từ nước Anh. Họ tổ chức một buổi tiệc Tạ Ơn để người Pilgrims có dịp bày tỏ lòng tri ơn cuả họ , cảm ơn Thượng Đế đã cho họ được gặp những người địa phương đầy lòng từ tâm, đã giúp họ một cuộc sống mới nơi mà họ đã phải đánh đổi bao nhiêu gian nan để tìm kiếm.”

Bài học về ngày Lễ Tạ Ơn cũng chấm dứt, tiếp theo đó mỗi người trong lớp đã bày tỏ lòng biết ơn cuả mình với những người xung quanh, mở đầu cho một party mang nhiều màu sắc dân tộc. Trước mấy ngày, giờ ra chơi những học sinh đã hỏi nhau về những món ăn mà mọi người mang đến lớp học mừng lễ Tạ Ơn, đây cũng là lần đầu tiên chúng tôi được làm quen với những món ăn truyền thống cuả từng dân tộc.

Martha người Mễ Tây Cơ còn trẻ và rất vui tính, trên tay cô là một khay thức ăn đậm đà hương vị Mễ Tây Cơ, bánh bột bắp cuộn món bò hầm với rau đậu ăn lạ miệng và khá ngon. Cô đến lớp đỏm dáng với chiếc váy hoa sặc sỡ, đôi chân như nhảy nhót theo điệu nhạc. Martha là người đã dạy tôi hát bản “Besame Mucho” bằng tiếng Spanish, mỗi dân tộc đều thể hiện dân tộc tính cuả mình qua các món ăn hay cách sinh hoạt, người Mễ Tây Cơ thích âm nhạc, thích hưởng thụ khác với tính chuyên cần, chăm chỉ và kín đáo cuả người Việt. Vốn tính trung thực, Martha giản dị chỉ cho những người mắt kém đi chọn một cái kính đeo mắt tương đối trong cửa hàng Walgreen, cô hóm hỉnh nói:

“ Mình chưa đủ tiền đến bác sĩ đo mắt và mua một cái kính đắt tiền, đến đó (ý cô nói là cửa hàng Walgreen) có vô khối các loại kính đeo mắt cho mình chọn lựa. Tạm thời thôi, mai mốt khi nói giỏi tiếng Anh, có việc làm tốt, các bạn tha hồ đi khám mắt và mua một cái kính hoàn hảo.”

À thì ra trong câu chuyện nhỏ, Martha đã đem đến cho mọi người ý nghiã cuả sự tương đối, trong khi tôi biết một vài người quen diện tỵ nạn, sau khi thoát khỏi cảnh nghèo ở quê hương,sang đây vẫn hay ta thán bất mãn cho rằng cuộc sống cuả họ vẫn chưa được những điều vừa ý. Đó là sự đòi hỏi một cách quá đáng,khi chính bản thân họ vẫn đang sống nhờ vào cộng đồng xã hội. Đáng lẽ thế này, đáng lẽ thế nọ, toàn những đáng lẽ để phàn nàn mà không nghĩ mình đang chịu ơn những người chả hề mắc nợ mình, họ cũng phải một nắng hai sương đi làm đóng thuế, và nhờ sự đóng góp cuả họ mà mình được san xẻ.
Trong bữa tiệc, bác Bích Huệ người Việt cao niên nhất cuả lớp học, đã làm nguyên một ổ bánh kem thật lớn, với hàng chữ Tạ Ơn viết thật nắn nót. Bác tiêu biểu cho một cụ già VN mà còn hiếu học, tinh thần Tạ Ơn và luôn nghĩ đến người khác đã được thể hiện dài dài trong đời bác. Gần 80 tuổi, bác vẫn mở lớp dạy làm bánh tại nhà, không hề nhận một đồng thù lao để dạy cho các người Việt trẻ tuổi thích trổ tài nội trợ khi có dịp họp mặt trong gia đình, hoặc cho những người cần học một nghề để làm cần câu cơm. Ai cũng ái ngại cho việc tuổi già vác ngà voi cuả bác, nhưng bác nói:

“ Tôi già rồi, không đóng góp được gì với đời. Bao nhiêu năm kể từ năm 75, dẫn cả nhà sang đây tỵ nạn, gia đình tôi đã làm lại từ đầu nhờ xứ sở này rộng rãi mở cửa cho chúng tôi vào. Nay con cháu đã thành đạt , tôi chịu ơn xứ sở này và cuả cuộc đời cũng nhiều, không biết cách gì để trả ơn, thôi thì đây cũng là một cách giúp chị em phụ nữ như tôi biết thêm nghề gì hay nghề nấy. Người nội trợ làm các loại bánh ngon cho gia đình thưởng thức, tiết kiệm được chút nào hay chút đó, người đang cần việc làm cũng có thể làm một nghề mới, tăng thêm ngân quỹ gia đình, đấy là điều làm cho tôi cảm thấy hạnh phúc.”

Bác thật hạnh phúc vì hiểu ý nghiã của sự cho đi là nhận lại, tôi luôn nhớ đến những gì bác làm cho mọi người và từ đó tôi nghiệm ra hai chữ tri ơn cuộc đời cuả bác. Tháng chín năm nay, bác đã thênh thang đi về bên kia thế giới, hành trang mang theo là những gì bác đã làm cho mọi người khi còn sống, ngày tang lễ cuả bác thật đông người đến đưa tiễn. Trong tấm ảnh, khuôn mặt hiền từ, đôn hậu của một cụ già suốt đời chỉ thích làm việc thiện vẫn nở nụ cười nhân từ với những bông hồng trắng muốt.

Những người Mỹ tôi quen còn dạy cho tôi một bài học về sự tự tin và lạc quan trong cuộc sống cuả họ. Khi về già , họ không ngồi ta thán sự hẩm hiu cuả mình trong bốn bức tường, không bi quan sầu luỵ quá về bệnh tật. Viết đến đây tôi lại nhớ đến bà Naomi, một phụ nữ da trắng khuôn mặt tròn, da nhăn nheo xếp lớp với thời gian, tuổi già đã làm cho bà nhỏ bé lại nhưng toàn khuôn mặt toát lên một vẻ yêu đời tha thiết.Thế mà bà đang bị ung thư thời kỳ cuối cùng đấy, nhưng tôi không thể nào biết được người đàn bà cao niên ấy đang phải chống chỏi với căn bệnh trầm kha này như thế nào.

Bữa ăn cuối cùng với bà NaoMi cũng vào dịp lễ Tạ Ơn, bác Huệ và tôi được mời khi cùng đi với nhóm bạn già cuả bà NaoMi đến thăm một nhà dưỡng lão. Viện Dưỡng Lão vào một ngày muà đông buồn ảm đạm, một cụ gìa ú ớ gọi tên hết người này đến người khác, bà đang lẫn lộn dĩ vãng với hiện tại. Một cụ ông đẩy chiếc xe lăn cho bà vợ tóc xoã rũ rượi, ông nói:
“ Mỗi ngày, tôi đi bộ 3 miles từ nhà đến đây để gần gũi vợ tôi, dù bà không nhớ tôi là ai, nhưng tôi thì nhớ bà là vợ mình.”
Một câu nói thật hay mà đâu cần phải tìm trong những lời hay ý đẹp cuả các vĩ nhân trên thế giới. Chưa hết, tôi gặp một cô giáo già hơn 80 tuổi, có lẽ bà là ngưởi tỉnh táo nhất trong những người già ở nursing-home này. Bà luôn miệng ca hát, toàn những bản nhạc quen thuộc trong muà Giáng Sinh. Tôi hỏi bà có buồn không khi sống ở đây, bà bảo bà không buồn, vì ít ra bà cũng còn thấy mình đang hạnh phúc, tỉnh táo hơn nhiều người khác. Trong phần văn nghệ giúp vui, bà Nao Mi đóng vai một đưá trẻ con, bà giả giọng eo éo nên ai cũng phải bật cười. Bà thích ăn những món ăn VN và hỏi cách nấu, rồi hỏi tôi về một bài hát Việt Nam bà nghe được trong nhà thờ, khi tôi hát, bà ư ử hát theo và khen đây là một bài thánh ca mang đậm đà tính cách dân tộc.

Vật lộn với thần chết đến giây phút cuối cùng, lạc quan yêu đời để lướt qua những cơn đau là tính lạc quan cuả bà NaoMi. Một ngày thứ bảy cùng năm đó, tôi lại đến dự tang lễ tiễn bà NaoMi trong ngôi thánh đường êm ả, nhìn tấm ảnh nụ cười bà thật rạng rỡ.

Những người bạn cao niên này còn dạy cho tôi tinh thần tự nguyện làm công tác xã hội, không rụt rè vì khác biệt ngôn ngữ và văn hoá. Bà Linda gầy gò ngày ngày lái xe đến trường tiểu học để sắp xếp những cuốn sách cuả các em học sinh bừa bãi trên bàn vào các kệ sách cuả thư viện, dạy cho các em học tính ngăn nắp và biết cách giữ gìn những cuốn sách. Một hôm đang lơn tơn tìm gặp cô giáo của con tôi thì bất ngờ bị chận lại bởi một giọng trẻ con thật dễ thương:

“ Bà có cần tôi giúp gì không?”

Ôi chao! Chắc chỉ có xứ sở này trường học mới dạy cho trẻ con câu hỏi ấy, nó đơn sơ và đầy tình người, được thốt ra từ đôi môi hồng cuả một cô bé 7,8 tuổi trong ngôi trường tiểu học, khiến tôi phải suy nghĩ và cảm động rồi tự hỏi, đến khi nào tôi mới biết hỏi một ai đó câu này mà giúp đỡ họ.

Đã gần 20 năm, những kỷ niệm về muà Tạ Ơn đầu tiên trên nước Mỹ vẫn còn nằm nguyên trong trí nhớ cuả tôi. Tôi yêu đất nước này biết bao, một lần trở về chốn cũ , khi đi qua công viên có những tàn cây cổ thụ, loanh quanh trên dốc cỏ xanh, thấp thoáng trong tôi là hình ảnh những người một thời quen biết. Xin cảm ơn người, cảm ơn đời …
Nguyên Nhung
( muà Tạ Ơn 2010)
 

langvuon

khoai nướng
#2
Ðề: Lễ Tạ Ơn

Lễ Tạ ơn của người Việt tại Mỹ
(theo VnExpress)

Là một người di dân, mỗi năm đến ngày lễ Tạ ơn tôi lại có nhiều cảm xúc. Ở đất nước Mỹ đã 25 năm, đi một đoạn đường khá dài, tôi thật có nhiều điều để cảm tạ.

Cứ vào tháng 11 là mọi người ở Mỹ lại nôn nao cho một ngày lễ lớn nhất trong năm - lễ Tạ ơn. Tục lệ này bắt đầu từ mấy trăm năm trước khi nhóm người di dân đầu tiên vượt qua đói khát, bệnh tật đã trúng vụ mùa nơi vùng đất mới. Sau khi gặt hái thu hoạch, họ làm lễ cảm tạ ơn trên và từ đó đến nay người Mỹ, những thế hệ người di dân tiếp nối, đã có truyền thống làm lễ Tạ ơn mỗi năm vào thứ 5 của tuần thứ tư trong tháng 11.


Bữa tệc mừng lễ Tạ ơn của một gia đình tại Mỹ. Ảnh: recipeeworld.com.​

Đây là một lễ lớn của toàn dân tộc không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, màu da, khác với lễ Giáng sinh cho người Công giáo, Hanukak của người Do Thái, Tết của Việt Nam, Trung Quốc... Ai cũng có đấng Thiêng liêng để tạ ơn, ai cũng có người để cảm tạ. Lễ vào thứ năm nên đa số đều có 4 ngày nghỉ cuối tuần thuận tiện cho việc đi lại, thăm viếng, gặp gỡ gia đình.

Khác với Việt Nam, vào dịp lễ Tết các cửa hàng, thương gia đều tăng giá, ở Mỹ lại đại hạ giá rất nhiều món hàng, đặc biệt là thức ăn truyền thống của ngày lễ Tạ ơn như gà tây, bí rợ, khoai lang... Bình thường một pound gà tây khoảng $1-1,5 nhưng trong mùa lễ, rất nhiều cửa hàng cho không nếu khách mua chừng $50 các mặt hàng khác. Nếu chỉ bỏ ra $25 thì họ tính khoảng 20-30 cents/pound, chưa kể các hãng xưởng, công sở thường tặng gà tây cho nhân viên nữa.

Người Việt lúc mới qua Mỹ chưa quen được mùi gà tây hoặc những thức ăn đi kèm nên thường dùng để nấu phở, làm chà bông, cà ri, cũng ít khi tổ chức ăn lễ như người Mỹ. Tuy nhiên một vài năm sau đó quen nước, quen cái, nhất là những gia đình có con đi học bắt đầu làm tiệc cho con cái có không khí như bạn bè. Đó cũng là ngày gia đình, bạn bè tụ họp với nhau, chuyện trò hàn huyên, ăn uống vui vẻ nên dần dần người Việt ở Mỹ cũng ăn lễ Tạ ơn như những người Mỹ khác.

Bên cạnh các món ăn truyền thống vào dịp lễ như gà tây nướng, khoai tây nghiền, bánh nhân nướng (stuffing), khoai lang đỏ, bánh nhân táo, bánh nhân bí... người Việt thường kèm theo các món ăn Việt như chạo tôm, chả giò, bánh nậm, bánh ít, thịt quay và một vài món nước như soup bóng cá, cà ri, phở, bún bò Huế, hủ tiếu. Làm nhiều món vì ăn từ sáng đến tối, người ăn đồ Việt, kẻ ăn đồ Mỹ nhất là mấy đứa trẻ rất khoái món gà tây. Buổi chiều tối các ông thích coi football, các bà bàn chuyện mua sắm cho ngày hôm sau. Nhiều gia đình rủ nhau đến 12 giờ đêm là mang ghế xếp, cà phê, thức ăn nhẹ ra các cửa hàng xếp hàng chờ mở cửa lúc 5 giờ sáng. Nhiều người không cần mua nhưng nghe quảng cáo và ham vui với bạn bè nên cũng ra xếp hàng từ sớm.

Sáng thứ Sáu rất nhiều cửa hàng mở cửa từ 5 giờ sáng, ưu tiên cho một số người đầu tiên được mua những mặt hàng rất rẻ, đại hạ giá có khi chỉ còn một nửa, các mặt hàng khác đều giảm giá rất đáng kể. Ngày thứ Sáu Đen là ngày mua bán lớn nhất trong năm, nhiều nhà kinh tế gia coi sự mua bán trong ngày này như chỉ số kinh tế của thị trường Mỹ.

Là một người di dân, mỗi năm đến ngày lễ Tạ ơn tôi lại có nhiều cảm xúc. Ở đất nước này 25 năm, đi một đoạn đường khá dài, tôi thật có nhiều điều để cảm tạ. Ngày đến đất Mỹ với hai bàn tay trắng, vốn liếng chỉ có hai bộ quần áo cũ mèm và $5 cùng với chút tiếng Anh ít ỏi. Hội nhà thờ Tin Lành đã hướng dẫn cho tôi có nơi ăn chốn ở cho dù chỉ là một căn phòng nhỏ bé ở một cư xá nghèo. Họ đã mang tặng tôi những bộ xoong nồi tuy cũ nhưng vẫn còn dùng được, thùng quần áo tuy còn tốt nhưng rộng và dài so với khổ người bé nhỏ của tôi. Cuộc đời mới của tôi ở Mỹ đã bắt đầu như thế đó. Điều quan trọng nhất trong đời tôi là họ đã đưa tôi đi học Anh văn, đã đóng tiền học cho tôi semester đầu tiên trong college và đã khuyến khích tôi học tập không được nản lòng. Những năm tháng đại học cực khổ, buồn, lạnh lẽo, thậm chí đói vì không có tiền ăn ở ngoài khi đi học về trễ, nhà ăn ký túc xá đã đóng cửa, nhiều lúc tôi muốn buông xuôi tất cả nhưng tôi tự nhủ với mình sức khoẻ không có, nghề nghiệp cũng không, bỏ học ra làm được gì thôi thì phải ráng. Ráng được 4 năm thì người bảo trợ lại khuyến khích đi thi MCAT rồi vào học Y khoa và cuối cùng cũng xong 5 năm, ra trường, thi đậu và hành nghề đến giờ. Ngồi nghĩ lại cuộc sống hôm nay tôi có được một phần có sự cố gắng của bản thân, một phần có sự giúp đỡ, hướng dẫn của người bảo trợ, phần khác nhờ học bổng của chính phủ Mỹ. Thế thì tôi chắc chắn phải tạ ơn rồi.

Xin tạ ơn đất mẹ Việt Nam đã sinh ra tôi, tạ ơn đất Mỹ đã cưu mang, đã cho tôi một cuộc sống ấm êm tuy trầm lặng, bình thường nhưng hạnh phúc.
Xin tạ ơn bố mẹ đã mang nặng đẻ đau nuôi nấng, dạy dỗ con nên người.
Xin tạ ơn các bạn bè, người thân ở xung quanh đã giúp đỡ, đã bên cạnh tôi trong những ngày gian lao, khó nhọc cũng như vui vẻ, sung sướng.

Thân chúc các bạn một mùa lễ Tạ ơn an lành. Mong rằng mọi người hãy cùng nhau nghĩ đến những niềm vui, ơn phúc của người khác mang đến cho mình và san sẻ với những người xung quanh, cho nhau một tí, nhịn nhau một tí để cuộc đời nhẹ nhàng và đơn giản hơn. Mỗi người một ít, một ít góp lại sẽ thành cơn sóng lớn để xoá đi những thói hư tật xấu, những bất công, lừa đảo ở quanh ta. Những điều này không cần phải mua bằng tiền chỉ bằng một tấm lòng mà thôi.

Thân ái.
Tina Tran
 
#3
Ðề: Lễ Tạ Ơn

Nhân bàn về đề tài Tạ Ơn, chị Ngochappy và anh Langvuon cho Thaomy ké hai bài trong topic này nhé :100:


Lời Tạ Ơn

Bác sĩ Fulton Oursler khi trò chuyện với mọi người thường hay kể về một bà lão tên Anna, người đã chăm sóc ông từ khi ông còn bé. Bà là một người nô lệ, sau khi giải phóng được gia đình ông thuê về giúp việc trong nhiều năm.

Ông vẫn còn nhớ rất rõ cái cách bà ngồi ở chiếc bàn kê trong bếp, tay chắp trước ngực và mắt thì chăm chắm nhìn lên, lâm râm khấn: "Xin tạ ơn Người vì đã ban cho con vittles". Khi được hỏi, vittles là gì, bà đã trả lời rằng đó là thức ăn và đồ uống.

Cậu nhỏ trả lời, thì bà vẫn có đủ đồ ăn và thức uống đấy thôi, đâu cần phải tạ ơn, Anna đã chậm rãi đáp: "Ừ, đúng rồi, chúng ta đã có vittles rồi, nhưng nếu mình biết tạ ơn thì chúng sẽ được ngon hơn".

Bà kể rằng khi bà còn bé một vị thuyết giáo già đã dạy bà rằng, phải luôn luôn tìm ra một thứ gì đó để tạ ơn. Thế là, mỗi sáng khi thức dậy, bà thường tự nhủ: "Hôm nay mình sẽ tạ ơn điều tốt đẹp gì nhỉ?". Có những khi, mùi cà phê buổi sớm trong bếp bốc lên thơm phức, bay vào phòng bà. Mùi cà phê thơm ngào ngạt đã khiến cô gái bé nhỏ thốt lên: "Xin cảm ơn Thượng Đế vì đã ban cho chúng con cà phê. Và cảm ơn Người vì mùi thơm dễ chịu ấy".

Cậu bé Fulton lớn lên và đi học xa. Một ngày kia, cậu nhận được tin bà Anna hấp hối. Vội vã trở về, cậu thấy bà đang nằm trên giường, đôi tay chắp lại trên chiếc mền trắng, giống như những ngày xưa cậu đã từng thấy bà chắp tay trên chiếc tạp dề trắng để cầu nguyện.

Đang tự hỏi không biết bà tạ ơn bề trên những gì trong một thời khắc như thế, thì như thể đọc được ý nghĩ của cậu, bà mở mắt và nhìn chăm chú từng người - những khuôn mặt thương yêu đang ở quanh bà. Rồi bà nhắm mắt lại, khẽ khàng nói: "Xin tạ ơn Thượng Đế vì đã ban cho con những người bạn tốt như thế này".

Oursler đã chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi năng lực huyền bí của bà Anna trong việc luôn tìm ra một điều gì đó để tạ ơn. Người phụ nữ cao cả đó đã dạy cho ông một bí mật trường sinh mà nhiều người khác có thể sẽ chẳng bao giờ biết được - bà đã dạy ông cách sống để luôn được hạnh phúc và giữ được bình an trong tâm hồn.





Tạ Ơn Mẹ đã cho con hơi thở và trái tim nhân ái để làm người
Tạ Ơn Cha đã cho con nhìn thấy Núi rất cao và Biển rất tuyệt vời!


Tạ Ơn Sự Khổ Đau

Có những câu chuyện mãi mãi khó ai quên. Như chuyện một bà cụ đưa cháu bé ra chơi biển. Đang vui vẻ bỗng một con sóng lớn ập vào cuốn thằng bé ra khơi. Bà lão quỳ xuống bãi ngước lên trời nài nỉ: ''Làm ơn trả lại cháu cho tôi, tôi chỉ cầu mong vậy thôi, xin làm ơn!''

Một lát sau. Bất ngờ nhìn kìa! Lạ lùng chưa! Một đợt sóng vươn cao từ bãi biển ập vào bờ nhả ra chú bé ướt nhèm nhưng lành lặn, ngay dưới chân bà lão. Bà xem xét từ đầu đến chân cháu mình để yên tâm là nó không hề hấn gì. Cậu bé vô sự. Nhưng bất thần bà ngửa mặt lên trời, bực tức hét lên: ''Khi đến đây nó có đội mũ cơ mà!”.

Ai trong chúng ta cũng cứ tưởng hẳn bà cụ phải cảm ơn sự cố xảy ra như phép lạ này. Mọi người đều được giáo dục là phải biết trân trọng những hành vi tử tế và ân nghĩa mình được hưởng. Tuy nhiên, liệu chúng ta có luôn biết tri ân, cả những khi mọi điều không thật trọn vẹn? Và không phải chỉ NÊN cám ơn, liệu mỗi người có biết đó là bổn phận PHẢI làm.

Cách đây ít năm, vợ tôi bị móc ví. Trong khi chạy đôn chạy đáo xoay sở làm lại giấy tờ và các loại thẻ đã mất, tôi chợt nhớ đến những lời của tác giả Mattew Henry. Henry cũng đã từng bị trấn lột. Thế mà ông cũng tìm ra cớ để cám ơn tình huống rủi này. Ông biện luận: ''Tôi tạ ơn là trước đó tôi chưa bao giờ bị cướp. Cũng tạ ơn vì chỉ bị móc ví chứ không bị kẻ trộm cướp mất mạng sống. Cũng phải tạ ơn là vì dù hắn ta lấy sạch mọi thứ, nhưng cũng chẳng nhiều. Và càng phải tạ ơn là vì tôi bị cướp chứ không phải tôi là kẻ cướp". Dù không phải là tầng lớp cùng đinh nhưng có lẽ Henry vẫn dám nói: ''Cám ơn sự khốn khó''. Với lại người ta làm sao cảm thấy khổ được khi đang tíu tít bận nói lời cám ơn.


Steve Goodier



 
Chỉnh sửa cuối:

ngochappy

Cựu Ban điều hành
#4
Ðề: Lễ Tạ Ơn

Nhân bàn về đề tài Tạ Ơn, chị Ngochappy và anh Langvuon cho Thaomy ké hai bài trong topic này nhé :100:


Chào Thaomy,

Vâng, xin Thaomy cứ tự nhiên, vì truyền tải những thông tin về 1 tục lệ đẹp của nước Mỹ là điều mình mong muốn để mọi người được biết khi chọn nước Mỹ làm nơi cư ngụ mới.

Cám ơn Thaomy nhiều và chúc bạn một ngày tốt lành,

Ngọc:)