Mẹ MARIA dạy sống Kinh Mân Côi

langvuon

khoai nướng
#21
Ðề: Những ngày lễ Công Giáo tháng 11

Thứ Sáu ngày 19 tháng 11 năm 2010
Ngày 14 tháng 10 năm Canh Dần
Thứ Sáu sau Chúa Nhật thứ XXXIII Mùa Thường Niên
Kh 10: 8-11 Tv 119: 14, 24, 72, 103, 111, 131 Lc 19: 45-48

Thứ Bảy ngày 20 tháng 11 năm 2010
Ngày 15 tháng 10 năm Canh Dần
Thứ Bảy sau Chúa Nhật thứ XXXIII Mùa Thường Niên
Kh 11: 4-12 Tv 144: 1, 2, 9-10 Lc 20: 27-40
Kính thánh tử đạo Phanxicô Xaviê Cần, Thầy giảng

Thánh Phanxicô NGUYỄN CẦN
Thày giảng - (1803 – 1837)

Tôi trung không thờ hai chủ.

"Tôi trung không thờ hai chủ" lời cuối cùng phát ra từ miệng thánh Phanxicô Nguyễn Cần tóm tắt cuộc đời của thày, một người tôi trung, đã suốt đời trung thành với Chúa, phục vụ tha nhân, sống trung thực với suy nghĩ của mình, trung tín với giáo lý Tin Mừng và cuối cùng đã trung kiên vượt qua mọi thử thách, xứng đáng nhận lời chúc phúc "hãy vào hưởng niềm hoan lạc của Chúa trên trời". (Mt. 25,21).

Chí con đã quyết.

Phanxicô Nguyễn Cần còn có tên Nguyễn Tiên tức Tiên Truật, sinh năm 1803, tại làng Sơn Miệng, huyện Phú Xuyên, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông, Hà Nội. Từ niên thiếu, cậu Cần đã ước ao dâng mình trong nhà Chúa, nhưng mẹ cậu vì thương nhớ, không muốn xa con nên từ chối. Cậu phải nói với mẹ: "Nếu mẹ không bằng lòng con ở với cha xứ nhà, con sẽ trốn đi, ở với cha xứ khác". Thế là bà mẹ cũng phải chiều ý, cho cậu ở với cha Nghi, chánh xứ Sơn Miêng.

Nhờ đức hạnh tốt và siêng năng, cậu được vào chủng viện, trở thành thày giảng, được cử đi giúp Đức cha Havard Du, rồi cha Retord Liêu (năm 1838 lên chức Giám mục, gọi là Đức Thày Liêu). Cha Liêu đã nhận xét về thày Cần: "Thày giúp tôi học tiếng Việt, chia sẻ với tôi mọi khó khăn, hiểm nguy, thiếu thốn. Thày rất nhiệt tâm trong việc tông đồ".

Ngày 19.4.1836, cha Liêu nhờ thày đi mời cha Tuấn về xứ Kẻ Chuông giảng, chuẩn bị lễ Phục Sinh. Nhưng khi thày đến xứ Kẻ Vạc, nơi cha Tuấn ở thì bị bắt. Quân lính dấu ảnh tượng vào túi xách của thảyđê có chứng cớ cụ thể. Thày bị giải về huyện Thanh Oai và bị tống giam vào ngục.

Trước công đường, quan nói thày đừng tin vào các đạo trưởng, và hãy đạp lên ảnh đạo, quan sẽ tha cho về nuôi mẹ già. Thày trả lời : "Thưa quan, tôi chưa thấy các đạo trưởng lừa dối ai bao giờ, còn mẹ già tôi không lo, tôi xa nhà đã lâu chẳng giúp gì cho bà". Sau đó quan dùng nhiều lời khiếm nhã phê bình về đạo, thày bình tĩnh giải thích lại rỗi trình bày về 10 điều răn Thiên Chúa và sáu điều răn Hội Thánh, thày kết thúc bằng một lời tự nguyện, tự phát rất cảm động. Mọi người ở đó đều cản phục. Quan tuyên bố kết thức phiên tòa, đưa thày về trại giam. Nhưng quan nói nhỏ với những người đứng bên : "Anh này nói cũng có lý. Những giới răn và kinh nguyện của anh ta chứa đựng nhiều điều tốt lành, có lẽ còn dễ hiểu hơn bản "thập điều" của nhà vua nữa".

Một dạ sắt son.

Phần cha Liêu ở nhà rất buồn, cha tìm mọi cách cứu mạng cho thày Cần. Cha cho người đem tiền theo thân mẫu thày lên huyện để chuộc. Mới đầu quan đòi 300 quan, sau tăng lên 500, rồi 600, vượt qua con số dự trù, có lẽ vị quan đó không dám cho chuộc thì đúng hơn. Thày Cần an ủi mẹ: "Xin mẹ đừng lo cho con, con đã ước ao tử đạo từ lâu, xin mẹ chỉ cầu nguyện cho con là đủ".

Có nhiều người tỏ lòng thương hại thày Cần. Quan khuyên thày bước qua Thập Giá, thày cương quyết từ chối. lính khiêng thày đắt lên tượng ảnh Chúa, tahỳ ôm chặt lấy chân và la lên: "Tôi không đạp lên ảnh Chúa đâu". Một số giáo dân đã bỏ đạo nói: "Tội nào Chúa chẳng tha, Phêrô chối Chúa ba lần mà còn làm thủ lãnh Giáo Hội". Người khác lừa dối: "Cha Liêu nhắn thày cứ bước qua Thánh Giá, rồi sẽ về liệu sau". Họ còn đe dọa: "Nếu thày không nghe, quan sẽ làm khổ cả làng đó". Nhưng tất cả không làm xoay chuyển ý chi sắt đá của vị chứng nhân đức Kitô.

Thày quả quyết : "Dù thiên thần xuống bảo tôi bỏ đạo, tôi cũng chẳng tin. Dù kính trọng cha Liêu, tôi không thể làm điều sai lạc đó được. Hơn nữa, tôi biết chắc ngài không ra lệnh tôi làm như vậy. Còn với dân chúng, tôi thương mến thật, nhưng cũng không vì họ mà tôi xúc phạm đến Chúa".

Nhiều người ngoại giáo nói với nhau: "Giá như đạo mình bị cấm, chắc ta đã bước qua ảnh tượng trăm lần… Tượng đồng, ảnh giấy có chi mà sợ". Thấy không thể lay chuyển được người tôi chung của Chúa Kitô, quan cho giải thày Cần lên Hà Nội. Tám tháng tù ở Thanh Oai, mười tháng từ ở Hà Nội, là cả chuỗi ngày cực hình đổ trên người thày : cổ mang gông, tay mang xiềng xích, chân bị cùm… nhà tù thì nồng nặc mùi hôi hám, vì tù nhân phóng uế tại chỗ, lính canh đánh đập thày mỗi ngày để tra khảo tiền bạc. Trong một lá thư gửi cha Liêu, thày viết : "Con bị tra tấn ba lần, hai lần đầu, mỗi lần 60 roi, lần sau 50 roi, nhà giam đã chật hẹp hôi hám, lại có hơn chục anh đầu trộm đuôi cướp, ăn nói lỗ mãng, ban ngày say sưa, ban đêm cờ bạc, lúc nào cũng ồn ào làm con khó cầu nguyện quá".

Tông đồ trong trại giam

Thế nhưng, thày không chán nản, mà coi đó là môi trường Chúa gởi đến. Thày kiên nhẫn giúp được hai tù nhân hối cải, dạy giáo lý và rửa tội được vài người, chúng ta hãy đọc một đọan thư thày viết từ trạigiam ở Hà Nội :

"Con báo để cha an tâm. Ở đâu con cũng được mọi người thương mến, dù quan hay dân và các bạn tù đều kính trọng gọi con bằng thày, có người còn tặng con danh hiệu khác nữa. Hầu hết họ cảm thương con bị đau khổ, hoặc khen con vững chí. Con hay bàn luận với họ và biết nhiều điều mê tín của họ, nhưng chưa biết khuyyên bảo họ sao bây giờ. Có một ông Chánh tổng cũng bị giam ở đây, hứa với con khi ra tù sẽ theo đạo và sống theo những điều con giảng… Thưa cha, con thấy người đời sẵn sàng chịu nhiều khổ sở để được giầu sang hoặc danh vọng chóng qua, lẽ nào con không nhẫn nại, chịu những sự khó qua mau này, để được vinh quang đời đời".

Một lời tiên đoán

Viên cai ngục Hà Nội thấy tác phong của thày Cần, dự đoán : "Ông này chỉ bằng nắm tay mà nghị lực phi thường. Ông ta mà chết chắc sẽ trở lên Thành Hoàng của làng chứ chẳng chơi". Cũng trong thời kỳ ở Hà Nội, có lần thày Cần bị bệnh nặng, một linh mục giả làm thày lang vào giải tội, cho thày được rước lễ và xức dầu. Nhưng sau đó thày được bình phục ngay.

Ngày 20.11.1837, bản án vua Minh Mạng châu phê ra tới Hà Nội. Quan Tổng trấn khuyên thày nhắm mắt bước qua Thập Giá. Thày nói: "Mắt thì nhắm được, chứ lòng trí khôn không thể nhắm được, nên tôi chẳng làm". Quan lại cho xếp chéo hai khúc gỗ và nói: "Đây không phải ảnh Chúa, gỗ này cũng chưa được làm phép, cứ bước qua đi sẽ thoát chết". Nhưng thày không làm vì biết đó là dấu hiệu chối đạo.

Và thiên thu vĩnh phúc.

Một tuần sau, thày Phanxicô Cần bị điệu ra pháp trường cửa ô Cầu Giấy. Năm viên quan cưỡi voi đi trước, 10 cai đội cưỡi ngựa theo sau, rồi đến 300 lính vũ lâm, mặc binh phục đỏ, tay cầm kiếm. Một người cầm tấm thẻ ghi bản án: "Can phạm theo đạo Gia Tô, không chịu bước qua Thập Giá, án xử giải". Dân chúng hôm đó, đi xem rất đông.

Tại pháp trường, kh dây thừng đã quấn quanh cổ, thày Cần vẫn bình tĩnh cám ơn mọi người, nói với họ về cái hết theo đức tin Công Giáo, về hạnh phúc đời sau và hứa sẽ nhớ đến họ khi về bên Chúa. viên quan cố thuyết phục lần chót: "Anh có thể cứu mạng mình. anh không chộm cướp, cũng không làm loạn, bản án của anh còn có thể rút lại được, chỉ cần anh bước một bước qua Thập Tự:. Nhưng thày trả lời : "Tôi trung không thờ hai chủ, xin quan cứ an mà thi hành". Quan ra lệnh, tức khắc quân lính kéo mạnh hai đầu dây, người môn đệ Chúa Kitô gục dầu tắt thở, lãnh cành vạn tuế tử đạo ngày 20.11.1837, khi mới 34 tuổi.

Thi hài vị tử đạo được an táng tại Chân Sơn, sau cải táng về nhà thờ xứ Sơn Miêng. Đức Lêo XIII suy tôn thày Nguyễn Cần lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Lời tiên đoán vô tình của viên cai ngục đã trở thành hiện thực. Ngày nay, thánh Phanxicô Nguyễn Cần không những là "Thành Hoàng" của làng Sơn Miêng, mà hơn thế, là Thánh Tử Đạo của Giáo Hội Việt Nam và được cả Giáo Hội hoàn cầu ngưỡng mộ.
 

langvuon

khoai nướng
#22
Ðề: Những ngày lễ Công Giáo tháng 11

Chúa Nhật ngày 21 tháng 11 năm 2010
Ngày 16 tháng 10 năm Canh Dần
Chúa Nhật thứ XXXIV Mùa Thường Niên
LỄ CHÚA KITÔ VUA, Lễ Trọng
2Sm 5: 1-3 Tv 122: 1-2, 3-4, 4-5 Cl 1: 12-20 Lc 23: 35-43

Chúa Kitô Vua

33 Ông Philatô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu và nói với Người: "Ông có phải là vua dân Dothái không?"
34 Đức Giêsu đáp: "Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?"
35 Ông Philatô trả lời: "Tôi là người Dothái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?"
36 Đức Giêsu trả lời: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Dothái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn này". Ông Philatô liền hỏi: "Vậy ông là vua sao?" Đức Giêsu đáp: "Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi".
38 Ông Philatô nói với Người: "Sự thật là gì?" Nói thế rồi, ông lại ra gặp người Dothái và bảo họ: "Phần ta, ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy.

Trong lịch sử nhân loại, không thiếu gì những ông vua bị đem ra xét xử và bị đem ra hành quyết. Nhưng khi một ông vua bị đem đi hành quyết thì ông ta đã bị truất quyền hay bị cướp quyền. Đối với những kẻ hành quyết hay lên án ông, thì ông không còn được nhìn nhận là vua nữa. Đó là trường hợp vua Louis 16 của nước Pháp chẳng hạn. Vì thế, người ta không bao giờ nói xử tử vua Louis 16 mà xử tử một người với cái tên thật của người ấy chứ không phải là tên hiệu.

Trường hợp Chúa Giêsu thì khác hẳn. Trước khi bị điệu ra trước tòa án Philatô, Ngài chưa bao giờ thực sự là vua, theo kiểu các vua chúa trần gian, tuy rằng Ngài đã có cơ hội lên ngôi nếu như Ngài muốn. Trái lại chỉ khi bị bắt và bị giải ra trước tòa tổng trấn Philatô, Ngài mới dõng dạc tuyên bố công khai: Phải, tôi là vua, tôi đã sinh ra và đã đến thế gian là để làm chứng cho sự thật.

Thực ra thì Chúa Giêsu không bao giờ trực tiếp khẳng định Ngài là vua, nhưng Ngài nói với Philatô: Nước tôi không thuộc về thế gian này, nếu nước tôi thuộc về thế gian này thì người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do Thái, nhưng quả thật, nước tôi không thuộc về thế gian này.

Câu trả lời muốn nói lên rằng Chúa Giêsu có một vương quốc, thế nhưng vương quốc đó ở đâu? Ở trên trời hay ở một hành tinh nào khác? Hay là vương quốc ấy chỉ có ở đời sau? Chúa Giêsu không bảo rằng: Nước tôi không ở thế gian này, mà Ngài nói: Nước tôi không thuộc về thế gian này.
Cũng như các môn đệ tuy ở giữa thế gian mà không thuộc về thế gian, chúng ta có thể nói: Nước Thiên Chúa ở ngay giữa thế gian này, nhưng lại không thuộc về thế gian này. Bởi vì như thánh Phaolô cũng đã xác quyết: Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.

Điều ấy có nghĩa Nước Thiên Chúa là một thực tại tâm linh đã bắt đầu hình thành ngay giữa lòng thế giới hiện đại, nhưng không thuộc về trật tự hay những lãnh vực trần gian, do đó người ta không thể nói rằng: Nước Thiên Chúa đây này hoặc kia kìa, mặc dầu nước ấy đang thực sự ở giữa chúng ta.

Vương quốc của Chúa Giêsu không phải là một lãnh thổ, mà trước hết là cộng đoàn những con người tin theo Chúa và sống tinh thần bác ái yêu thương đối với mọi người. Bởi đó, những ai sống theo chân lý của tình thương, nghĩa là xác tín rằng chỉ có tình thương mới thực sự đem lại công lý hòa bình và hoan lạc cho loài người. Một khi xác tín như vậy, chúng ta sẽ đem hết tài năng, sức lực và thời giờ vào công trình xây dựng một cộng đồng huynh đệ bác ái: tất cả những người ấy sẽ tạo nên nước Đức Kitô ngay hôm nay, ở trong thế giới này.

Thế nhưng, không một công trình xây dựng nào mà lại không đòi hỏi mồ hôi nước mắt và đôi khi cả xương máu nữa. Bởi vì để hạt giống có thể trở thành cây lúa đâm bông kết trái, thì hạt giống đó phải chết đi, đó chính là lý do khiến Đức Kitô đã lấy chính thân mình làm nền tảng, làm nguyên lý hay làm mầm phát sinh vương quốc Ngài muốn thiết lập.
Bởi thế, cây thập giá chính là ngai Ngài đã chọn để lên ngôi, mão gai là vương miện Ngài chọn cho lễ đăng quang và trái tim Ngài bị đâm thâu và mở rộng là biểu tượng của vương quốc mở ra cho mọi người.

01 NOV 2010 CÁC THÁNH NAM NỮ, Lễ Trọng
02 NOV 2010 Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời

03 NOV 2010 Thánh Martin đệ Porres, Tu Sĩ
04 NOV 2010 Thứ Năm Đầu Tháng. Cầu cho các linh mục
05 NOV 2010 Thứ Sáu Đầu Tháng. Đền tạ Trái Tim Chúa Giêsu
06 NOV 2010 Thứ Bảy Đầu Tháng. Đền tạ Trái Tim Đức Mẹ

07 NOV 2010 Chúa Nhật thứ XXXII Mùa Thường Niên. Thánh Vịnh Tuần IV
08 NOV 2010 Thứ Hai sau Chúa Nhật thứ XXXII Mùa Thường Niên
09 NOV 2010 Lễ kính Cung hiến Thánh đường Thánh Gioan Latêranô
10 NOV 2010 Lễ nhớ Thánh Lêo Cả, Ghts
11 NOV 2010 Lễ nhớ Thánh Martinô thành Tours, Gm
12 NOV 2010 Lễ nhớ Thánh Josaphat, Gmtử đạo
13 NOV 2010 Thánh Frances Xavier Cabrini, Đt
14 NOV 2010 Kính trọng thể CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
15 NOV 2010 Thánh Albertô Cả, Gmtsht
16 NOV 2010 Thánh Margaret nước Tô Cách Lan, Gertrude, Đt
17 NOV 2010 Lễ nhớ Thánh Elizabeth nước Hungary, Tu Sĩ
18 NOV 2010 đền thờ Thánh Phêrô & Phaolô
19 NOV 2010 Thứ Sáu sau Chúa Nhật thứ XXXIII Mùa Thường Niên
20 NOV 2010 Kính thánh tử đạo Phanxicô Xaviê Cần, Thầy giảng

21 NOV 2010 LỄ CHÚA KITÔ VUA, Lễ Trọng
 
Chỉnh sửa cuối:

langvuon

khoai nướng
#23
Ðề: Những ngày lễ Công Giáo tháng 11

Thứ Hai ngày 22 tháng 11 năm 2010
Ngày 17 tháng 10 năm Canh Dần
Thứ Hai sau Chúa Nhật thứ XXXIV Mùa Thường Niên
Lễ nhớ Thánh nữ Cêcilia, Đttđ
Kh 14: 1-3, 4-5 Tv 24: 1-2, 3-4, 5-6 Lc 21: 1-4​

THÁNH XÊ-XI-LI-A
Trinh nữ, tử đạo


Giáo Hội Chúa Kitô được tô điểm bằng muôn vàn vị thánh. Các thánh là những người đã sống những nhân đức anh hùng, khiến mọi người đều phải công nhận những nét đẹp của các Ngài. Thánh Xê-xi-li-a là một trong muôn vàn thánh đã bảo vệ đức khiết tịnh của mình đến nỗi đã trở nên con người anh hùng, đã hân hoan được phúc tử vì đạo.

THÁNH XÊ-XI-LI-A

Theo sử liệu để lại, thánh xêxilia thuộc dòng dõi quí phái và có
đời sống đạo đức tốt đẹp. Thánh nhân quyết sống thánh thiện, bảo vệ sự khiết tịnh để dâng hiến toàn thân, cuộc đời mình cho Chúa. Với ước nguyện sống trinh tiết để dấn thân trọn vẹn cho Chúa. Thánh nhân dù đã đính hôn với Valérien, một người thuộc gia đình giầu có, nhưng Ngài vẫn xác tín một điều là giữ trọn lời đã khấn hứa. Nhờ tinh thần đạo đức, lòng nhiệt thành sốt sắng cầu nguyện,thánh nhân đã thuyết phục được Valérien và đứa em gái của Valérien trở về với Chúa, trở về với Giáo Hội.Ðức Giáo hoàng Urbanô đã rửa tội cho Valérien và người em gái của chàng. Với ơn Chúa và do sức mạnh của Chúa Thánh Thần, họ đã khước từ mọi thú vui xác thịt để chỉ chuyên chăm việc phụng sự Chúa và tha nhân. Giáo Hội Chúa Kitô lúc đó bị cấm cách bắt bớ dã man và không khoan nhượng. Valérien và cô em gái lo chôn cất các thánh tử đạo và dứt khoát không chịu tế thần, không chịu dâng hương cho thần ngoại. Chính vì thái độ can đảm và cương quyết như thế đã khiến quan quân bực tức, kết án tử hình cho hai anh em. Sự can trường mạnh mẽ không chút sợ sệt trước cái chết, đã khiến quan Maximiô được cảm hóa và giúp nhiều tay đao phủ ăn năn hối cải. Maximiô vì theo đạo, theo Chúa Kitô, cũng bị quan quân bắt giam, tra tấn và nhốt cho tới chết.


THÁNH XÊ-XI-LI-A ÐƯỢC CHÚA YÊU THƯƠNG VÀ GIÁO HỘI CẤT NHẮC

Ðể tỏ uy quyền của mình,quan quân đã ép buộc thánh nữ dâng hương tế thần. Thánh nhân dứt khoát không chịu khuất phục trước mọi sức mạnh trần thế. Ngài thà tin Thiên chúa còn hơn được lợi lộc của thế gian. Ngài không dâng hương tế thần ngoại mà còn mạnh mẽ tuyên xưng danh Chúa Kitô khiến nhiều người được ơn quay trở về với Thiên Chúa. Tức giận và căm thù trước sự tuyên xưng mạnh mẽ của thánh nhân, Anmatiô ra lệnh đem thánh nhân đi xử tử. Ðao phủ chặt một nhát vào cổ thánh nhân, rồi để mặc thánh nhân chết dần, chết mòn. Vào năm 1599, khi khai quật mộ thánh nhân, thân xác thánh nhân vẫn còn nguyên vẹn như khi mới qua đời.Chúa đã yêu thương Ngài, cho Ngài được phúc tử vì đạo. Giáo Hội đã tôn vinh Ngài.

Lạy thánh nữ Xê-xi-li-a, xin cầu thay nguyện giúp cho chúng con để mọi người chúng con được mạnh mẽ, can đảm làm chứng cho Chúa như thánh nhân đã chứng minh cho mọi người.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
 

langvuon

khoai nướng
#24
Ðề: Những ngày lễ Công Giáo tháng 11

Thứ Ba ngày 23 tháng 11 năm 2010
Ngày 18 tháng 10 năm Canh Dần
Thứ Ba sau Chúa Nhật thứ XXXIV Mùa Thường Niên
Thánh Clementô I, Ghtđ, Columban, Tu Viện Trường, Chân Phước Miguel Pro, Lmtđ
Kh 14: 14-19 Tv 96: 10, 11-12, 13 Lc 21: 5-11

Thánh Giáo Hoàng Clement I
(c. 101)

Ðức Clement của giáo phận Rôma là người thứ ba kế vị Thánh Phêrô, và cai quản Giáo Hội trong thập niên cuối cùng của thế kỷ thứ nhất. Lịch sử cho chúng ta biết ngài tử đạo năm 101. Tuy nhiên, chi tiết về sự tử đạo của ngài đều là truyền thuyết, được góp nhặt trong khoảng thế kỷ thứ tư hay thứ năm. Có lẽ Ðền Thánh Clement ở Rôma, là một trong những giáo đường đầu tiên ở thành phố này, được xây trên khu đất xưa là nơi cư ngụ của Thánh Clement. Thư đầu tiên của Thánh Clement gửi cho giáo đoàn Côrintô được giữ gìn cẩn thận, và bức thư này được phổ biến rộng rãi trong thời tiên khởi. Ðó là lá thư của Giáo Hội Rôma, tác giả là Ðức Clement, gửi cho Giáo Hội ở Côrintô về sự chia rẽ đã làm tách biệt giáo dân với giáo sĩ. Ðức Clement phàn nàn về sự chia rẽ trái phép và vô lý ấy trong Giáo Hội Côrintô, và ngài khuyên hãy đoàn kết lại. Ngài coi lý do của sự tranh chấp ấy là vì "đố kỵ và ganh ghét."

Lời Bàn

Ðức Clement đã chủ trương dùng đức ái để hàn gắn chia cắt trong Giáo Hội Côrintô, vì "nếu không có đức ái, không có gì làm hài lòng Thiên Chúa." Sau Công Ðồng Vatican II, toàn thể Giáo Hội cảm nhận được sự tách biệt giữa mới và cũ. Cầu mong sao mọi Kitô Hữu ngày nay hãy nhớ đến sự cổ vũ của Thánh Clement mà thể hiện lời Thánh Phao-lô: "Và trên tất cả những điều ấy hãy có đức yêu thương, đó là giây ràng buộc mọi điều toàn thiện" (Colossê 3:14).

Lời Trích

"Ðức ái kết hợp chúng ta với Thiên Chúa& Trong đức ái không có gì là xấu hổ, không có gì là ngạo mạn. Ðức ái không đi với ly giáo, không nổi loạn, nhưng hài hòa mọi sự. Trong đức ái, những người được Thiên Chúa tuyển chọn sẽ trở nên tuyệt hảo" (Thư Thứ Nhất Gửi Giáo Ðoàn Corinto).

Thánh Columban
(543? - 615)

Thánh Columban là nhà truyền giáo nổi tiếng người Ái Nhĩ Lan, hoạt động ở Âu Châu. Khi còn là thanh niên, ngài bị đau khổ dữ dội vì sự cám dỗ của xác thịt, ngài phải xin sự cố vấn của một bà đạo đức sống ẩn tu lâu năm. Qua lời khuyên bảo của bà, ngài nhìn thấy ơn gọi của mình. Ðầu tiên ngài là một tu sĩ trên đảo Lough Erne, sau đó ngài theo học tại tu viện Bangor.

Sau nhiều năm sống tách biệt để cầu nguyện, ngài đến xứ Gaul (nước Pháp bây giờ) để truyền giáo cùng với 12 người bạn. Các ngài được dân chúng quý trọng vì sự hăng say rao giảng, làm việc tông đồ, và luôn tuân giữ lời khấn bác ái, trong khi tu sĩ thời ấy thì lười biếng và dân chúng luôn luôn xung đột. Thánh Columban thiết lập vài tu viện ở Âu Châu mà sau này trở thành các trung tâm tôn giáo và văn hóa.

Như mọi vị thánh khác, ngài cũng bị chống đối. Cuối cùng ngài phải cầu khẩn đến đức giáo hoàng để chống với cáo buộc của các giám mục người Pháp, nhằm minh xác điều ngài giảng dạy là chân thật và chấp thuận các tục lệ của Ái Nhĩ Lan. Ngài khiển trách nhà vua về đời sống dâm loạn của ông dù đã thành hôn. Do đó, thánh nhân đã bị trục xuất trở về Ái Nhĩ Lan. Vì bão lớn, tầu của ngài bị mắc cạn, và ngài lại tiếp tục công việc truyền giáo ở Âu Châu, sau cùng ngài đến nước Ý, là nơi ngài được tiếp đón ân cần bởi ông vua của người Lombard. Trong những năm cuối đời, ngài thiết lập một tu viện nổi tiếng ở Bobbio, và cũng là nơi ngài từ trần. Các văn tự ngài để lại gồm một luận án về sự ăn năn sám hối và các văn bản chống với bè rối Arian, các bài giảng, thi ca và quy luật tu viện.

Lời Bàn

Sự phóng túng tình dục ngày nay đã đến mức quá độ, chúng ta cần nhớ đến gương mẫu sống động của những thanh niên sống khiết tịnh như Thánh Columban. Và cuộc sống an nhàn của thế giới Tây Phương ngày nay trái ngược với hình ảnh bi thảm của hàng triệu người đang chết đói, chúng ta phải chịu khó sống khắc khổ và có kỷ luật như các tu sĩ Ái Nhĩ Lan. Chúng ta cho rằng, họ quá nghiêm khắc, họ đi quá xa. Nhưng chúng ta sẽ đi được tới đâu?

Lời Trích

Trong thư gửi cho đức giáo hoàng nói về sự tương tranh ở Lombardy, Thánh Columban viết: "Chúng con là người Ái Nhĩ Lan, sống ở bên kia quả địa cầu, là những người theo Thánh Phêrô và Phao-lô và các môn đệ đã viết ra những quy tắc thiêng liêng dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúng con không chấp nhận những gì khác hơn là giáo huấn và truyền thống tông đồ này... Con thú nhận là con rất đau lòng vì điều tiếng xấu về ngai tòa Thánh Phêrô ở quốc gia này... Mặc dù Rôma thật xa cách, nhưng chúng con rất tôn trọng chỉ vì ngai tòa này... Xin Ðức Thánh Cha hãy để ý đến sự bình an của Giáo Hội, xin ngài đứng giữa đàn chiên và bầy sói."

Kính Chân Phước Miguel Pro

Năm 1926 Cha Miguel Pro đến hải cảng Veracruz để đi lên thủ đô xứ Mexicô. Suốt thời gian du học ở Âu châu ngài luôn mặc áo chùng đen của linh mục, nhưng bây giờ ngài phải mặc thường phục trong xứ sở của ngài. Mexicô lúc bây giờ là thời kỳ chống đạo Công giáo rất kịch liệt, chính phủ cách mạng đang tìm bắt giam các linh mục Công giáo. Sứ mệnh của Cha Pro là phục vụ giáo dân, củng cố đức tin của họ, thực thi các phép bí tích. Ngài phải trốn tránh để khỏi bị bắt giam càng lâu càng tốt.

Trước kia cuộc cách mạng năm 1910, nông dân xuống đường đòi hỏi quyền lợi dương cao hình ảnh Đức Mẹ Guadalupe. Ngày nay Tổng Thống Plutarco Calles với khẩu hiệu “Ruộng đất và Tự do” trở thành một chiến dịch chống đối Giáo Hội Công giáo. Dù dùng những đạo luật khắt khe chính phủ vẫn không thể nhổ tận gốc niềm tin Kitô của dân chúng. Khi Cha Pro đến Mexico City, cha liền tiếp xúc ngay với Giáo hội thầm lặng. Từ nhỏ Cha Pro đã có óc hài hước, bây giờ ngài viết thư về cho Bề trên Dòng Tên tính cách phiêu lưu của một linh mục sống lẩn lút để làm việc tông đồ. Cha đã nhiều lần hóa trang qua mặt bọn công an và ngài rất thích thú với phiêu lưu đó. Ngài bận bịu suốt ngày nghe giải tội, thầm lén rửa tội cho trẻ nhỏ, đem Mình Thánh Chúa cho giáo dân. Bọn công an của nhà nước ở khắp mọi nơi, làm công việc của một linh mục chui thật khó khăn và nguy hiểm.

Việc bách hại Giáo Hội Công giáo gây nên phong trào chống đôi rất danh tiếng do nhóm Cristero Rebellion khởi xướng để bảo vệ Giáo Hội và ý nghĩa đích thật của cuộc cách mạng giải phóng. Anh ruột của Cha Pro là một thành viên của Phong trào Bảo vệ Đạo giáo đã công khai chống đối chính quyền. Một lần kia họ thả bông bóng và những truyền đơn chống đối khắp thủ đô và cuộc ám sát hụt cựu Tổng thống làm cho công an đi càn quét những phần tử Công giáo và những người lảnh đạo.

Cha Pro đã trốn thoát nhiều lần, nhưng cuối cùng ngài bị bắt với người anh và bị kết án đồng lỏa trong việc tổ chức ám sát. Cha Pro công khai tuyên bố là không can dự vào cuộc âm mưu, công an cũng xác nhận là ngài vô tội nhưng chính Tổng thống Calles lại ra lệnh hành quyết ngài.

Từ khi đến Mexico City Cha Pro đã nhìn thấy trước cuộc tử nạn. Trước khi bị bắt Cha đã cầu nguyện trong Thánh Lễ xin Chúa chấp nhận cuộc hy sinh mạng sống của mình để cứu vớt quê hương của ngài thoát cảnh lầm than và xin gìn giữ các đồng bạn linh mục. Cha đã chấm đứt bức thơ với lời chào tạm biệt. “Xin hãy nhớ tôi, mỗi lần khuyến khích ai đọc được một kinh Kính Mừng thì tôi sẽ hoan hĩ vô cùng.”

Cha Pro bị giam nhiều ngày trong hầm tối và không biết số phận mình như thế nào. Không có một cuộc xử án công khai. Vào một buổi sáng ngày 23 tháng 11 đôi công an hành hình đến đem ngài đi xử bắn. Một phái đoàn chính phủ, phóng viên báo chí và dân chúng được mời đến chứng kiến cuộc hành quyết.

Cha Pro được cho phép nói lời cuối cùng. Cha xin phép được cầu nguyện. Sau khi cầu nguyện xong Cha đã yên lặng giang hai tay hình thánh gía chấp nhận tử đạo. Cha Pro thốt lên lời cuối cùng:”Viva Cristo Rey” (Vạn tuế Đức Vua Kitô).

Tổng Thống Calles hy vọng sau cuộc hành quyết Cha Pro thì phong trào chống đối sẽ tan rả nhưng trái lại càng trở nên mãnh liệt hơn. Cha Pro được dân chúng sùng kính như một đấng thánh. Hình ảnh tử đạo của Cha được in thành những hình nhỏ phân phối cho dân chúng tôn kính. Cha Miguel Pro được Đức Giáo Hoàng Phao lồ II phong Chân Phước tử đạo năm 1998.

PhóTế Huỳnh Mai Trác


 

langvuon

khoai nướng
#25
Ðề: Những ngày lễ Công Giáo tháng 11

Thứ Tư ngày 24 tháng 11 năm 2010
Ngày 19 tháng 10 năm Canh Dần
Thứ Tư sau Chúa Nhật thứ XXXIV Mùa Thường Niên
Kính trọng thể CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Kh 15: 1-4 Tv 98: 1, 2-3, 7-8, 9 Lc 21: 12-19

MỪNG KÍNH LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM


"Vì chính khi hiến dâng là khi được nhận lãnh,
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.”


1. Thời gian và con số:
- Thời gian bắt đầu vào năm 1580 và chỉ kết thúc hoàn toàn vào năm 1888, kéo dài gần 3 thế kỷ.
- Có khoảng 400.000 người bị lưu đầy, phát lưu và phân sáp. 130.000 người đã chết vì đạo trong số này đã có 117 vị được Giáo Hội chính thức tôn phong lên hàng hiển thánh vào ngày 19.6.1988.

2. Về các hình khổ:
Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được như:
- Gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói.
- Bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, v.v...
- Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết - tức là bị chặt đầu, bị xử giảo - tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống... Vô cùng man rợ và hiểm độc như bị xử lăng trì - phân thây ra từng mảnh hay là xứ bá đao.

3. Quá trình Giáo Hội phong thánh
- Ngày 27.5.1900 Đức Thánh Cha Lêo XIII phong 64 vị lên hàng chân phước.
- Ngày 20.5.1906 Đức Thánh Cha Pio X phong thêm 8 vị.
- Ngày 02.5.1909 cũng Đức Thánh Cha Piô X phong thêm 20 vị nữa.
- Ngày 29.4.1951 Đức Thánh Cha Pio XII phong 25 vị.
- Ngày 19.6.1988 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong các Ngài lên Hiển Thánh

Trong 117 vị được phong chân phước có: 8 Giám Mục (Giám Mục thuộc dòng Đaminh và 2 Giám Mục thuộc Hội thừa sai Paris) + 50 Linh Mục (Gồm 37 là người Việt Nam, 8 thuộc Hội thừa sai Paris và 5 thuộc dòng Đaminh) + 15 Thầy Giảng + 44 Giáo Dân thuộc đủ mọi thành phần xã hội: công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ, v.v...

4. Theo loại hình phạt
- 79 vị bị trảm quyết tức là bị chặt đầu. Như vậy là con
số bị trảm quyết nhiều nhất.
- 18 vị bị xử giảo tức là bị thắt cổ.
- 8 vị chết rũ tù
- 6 bị thiêu sinh
- 4 bị lăng trì - tức là phân thây ra từng mảnh
- 1 bị tử thương và
- 1 bị bá đao

5. Về thời gian
- 2 vị chịu tử đạo thời Trịnh Doanh
- 2 vị chịu tử đạo thời Trịnh Sâm
- 2 vị chịu tử đạo thời Cảnh Thịnh.
- 57 vị chịu tử đạo thời Minh Mạng
- 3 vị chịu tử đạo thời Thiệu Trị
- 51 vị chịu tử đạo thời Tự Đức

LM. Giuse Nguyễn Hữu An
 

langvuon

khoai nướng
#26
Ðề: Những ngày lễ Công Giáo tháng 11

Thứ Năm ngày 25 tháng 11 năm 2010
Ngày 20 tháng 10 năm Canh Dần
Thứ Năm sau Chúa Nhật thứ XXXIV Mùa Thường Niên
Kh 18: 1-2, 21-23 Tv 100: 2, 3, 4, 5 Lc 21: 20-28

Thứ Sáu ngày 26 tháng 11 năm 2010
Ngày 21 tháng 10 năm Canh Dần
Thứ Sáu sau Chúa Nhật thứ XXXIV Mùa Thường Niên
Kh 20: 1-4, 11-21 Tv 84: 3, 4, 5-6, 8 Lc 21: 29-33
Kính thánh tử đạo Tôma Đinh Viết Dụ, Đaminh Nguyễn Văn Xuyên, Lm

Thánh Tôma Đinh Viết Dụ
Linh mục dòng Đaminh - (1783 – 1839)

Giả thiết có ai đặt câu hỏi như sau : "Anh sắp bị giam tù lâu ngày, anh muốn mang theo cái gì ?". Mỗi người chúng ta sẽ có câu trả lời riêng, nhưng xoay quanh hai nhu cầu là tiền bạc và đồ dùng thường nhật. Câu trả lời bằng hành động của thánh Tôma Dụ lại rất khác. Tài sản duy nhất, vũ khí duy nhất, cũng là hành lý duy nhất của ngài là một chuỗi trang hạt Mân Côi. Suốt đời cha đã đọc, đã sống và truyền bá kinh Mân Côi cho mọi người, giờ đây cha tiếp tục phó thác bản thân cho sự bảo trợ của Mẹ Maria.

Một lời hiến dâng.

Tôma Đinh Viết Dụ sinh khoảng năm 1783, tại làng Phú Nhai, tỉnh Nam Định. Được Chúa kêu gọi, từ bé, cậu đã quyết tâm sống đời tu trì. Sau khi thụ phong linh mục, cha Dụ xin nhập dòng Đaminh và khấn ngày 21.12.1814. Cha là một tông đồ nhiệt thành dấn thân vì lợi ích các linh hồn. Đồng thời cha cũng là một tu sĩ gương mẫu về đời sống chiêm niệm, ngày đêm chìm đắm trong suy gẫm cầu nguyện, đến nỗi các bạn trong dòng đã gọi ngài là "Thánh Brunô Việt Nam".

Cha Dụ đã hoạt động tông đồ nhiều nơi, trước khi tới họ Liễu Đề, Bùi Chu, thay thế cha Phêrô Tuần bị bắt năm 1838. Ngày 20.03.1839, dưới thời vua Minh Mạng cấm đạo, Tổng đốc Trịnh Quang Khanh dẫn 800 quân lính bao vây, lục soát làng Liễu Đề, vì có người chỉ điểm báo tin "Danh Trùm Vọng" tức cha Hemoisilla Liêm đang ở đó, nhưng lính không bắt được cha Vọng. Phần cha Dụ, khi vừa hoàn tất thánh lễ tại nhà bà Anrê Thu, được tin quan quân đã vây kín làng, biết không kịp đến nơi trú ẩn cách đó hơi xa, cha đành cải trang thành người làm vườn qua nhà bên cạnh lúi húi ngồi nhổ cỏ. Quân lính đi ngang qua không biết, nhưng người tố cáo nhận ra được và nói : "Đạo trưởng đấy". Thế là cha bị bắt và dẫn đến quan đang ở đình làng. Cha bình tĩnh nói : "Tôi là Đạo trưởng, có nhiệm vụ coi sóc giáo hữu ở đây".

Tiếp đó, quan hỏi về thừa sai Vọng và các linh mục khác ở đâu, cha nhất quyết không trả lời chi cả. Quan tức giận cho lục soát khắp người xem có tiền bạc giấy tờ gì không. Nhưng ông hoàn toàn thất vọng, vì chỉ có một chuỗi tràng hạt Mân Côi, lính tịch thu và đánh cha 21 roi. Cha vui vẻ chịu đòn, không một lời than van oán trách. Bà Anrê Thu, vì không kịp cất giấu đồ lễ, nên cũng bị bắt trói và giữ tại đình làng 24 tiếng đồng hồ mới được về.

Xin vâng ý Cha

Cha Tôma Dụ bị đóng gông vào cổ, tay chân mang xiềng xích như một tội phạm, và bị giải lên tỉnh Nam Định. Các quan ở đây tiếp tục tra vấn nhiều lần, khuyên dụ cha đạp lên Thánh Giá. Nhưng mặc cho những lời dụ dỗ hay dọa nạt, cha Dụ vẫn cương quyết không xúc phạm đến Thập Giá, và không cung khai điều gì hại đến các tín hữu. Cha bị đánh đạp tàn nhẫn nhiều lần, lần thứ nhất 90 roi, lần hai 30 roi, lần khác 20 roi và phải đón nhận nhiều lời mắng nhiếc chế nhạo của dân chúng tò mò đến xem.

Sau những cuộc tra tấn, cha Dụ bị tống giam vào ngục, ban ngày mang gông xiềng, ban đêm bị cùm chân, thêm vào đó là chịu đói khát, chịu nóng nực hôi hám khổ cực khôn tả. Vị tông đồ của Chúa chẳng những tỏ ra nhẫn nhục, mà còn vui vẻ coi đó là những cơ hội tốt để suy niệm và bước theo chân Đức Kitô tử nạn. Chứng nhân Giuse Hiền thuật lại chuyện mẹ của ông ta, giả làm hành khất vào tận ngục thăm cha. Khi thấy cha tiều tụy vì những cuộc tra tấn, bà khóc lên nức nở, cha nói với bà :

"Sức lực tôi tuy giảm, nhưng tôi còn có thể chịu đựng được nữa. Chúa chúng ta đã chịu bao cực khổ để cứu độ nhân loại, tôi cũng sẵn lòng chịu những sự khổ này để nên giống Chúa Kitô phần nào".

Để danh Chúa cả sáng

Lần thứ hai bà vào thăm, cha dụ cho biết những cực hình sau này cha cảm thấy không đau đớn như trước, hình như Chúa đã giảm bớt sự đau khổ cho cha. Khi bà chào từ biệt, cha nói : "Tôi không biết ngày nào sẽ được hiến dâng mạng sống vì Chúa, có thể anh chị em không còn gặp tôi nữa. Bà hãy cầu nguyện nhiều, xin Chúa ban cho tôi ơn nhẫn nại chịu đựng tất cả những điều người ta gây cho tôi để danh Chúa được cả sáng".

Sau sáu tháng giam cầm và tra tra tấn, quan tuyên bố bản án với những lời sau:

"Đạo trưởng Tôma Đinh Viết Dụ bị kết án trảm quyết vì tội truyền bá Gia Tô tả đạo. Các quan đã hết sức khuyên dụ, dọa nạt và tra tấn để bắt y quá khóa theo luật nước, nhưng y không chịu. Y đã trở nên chai đá không gội rửa được những dị đoan đã quá ăn sâu… Do đó, mọi người thấy rõ y là kẻ điên khùng cố chấp bất trị, đáng khinh dể. Vậy phải nghiêm trị, còn phàn nàn gì nữa".

Thực tế, cha Dụ nghe bản án có phàn nàn chi đâu. Ngày 07.11, vua Minh Mạng ký án. Ngày 12.11, án về tới Nam Định. Khi ấy có cha Đaminh Nguyễn Văn Xuyên cũng thuộc dòng thánh Đaminh đã bị bắt ngày 18.8 được đưa tới trại giam chung và cùng bị án tử với cha Dụ. Hai anh em gặp nhau trong tù tay bắt mặt mừng, hàn thuyên tâm sự. Hai cha xưng tội với nhau, an ủi khuyến khích nhau kiên trì tới cùng.

Mừng ngân khánh trên thiên quốc

Ngày 26.11.1839, hai vị tông đồ Chúa bị điệu đến nơi xử án. Hai vị ung dung bưởc đi giữa một đoàn quân oai vệ, có các quan cưỡi voi chỉ huy với cờ quạt chiêng trống, và theo sau là đông đảo dân chúng. Vai mang gông, tay mang xiềng, hai vị thừa sai vừa đi vừa cầu nguyện, dáng điệu hân hoan khiến mọi người phải sửng sốt bỡ ngỡ. Quan hỏi lần chót xem nếu chịu xuất giáo sẽ được tha. Hai cha trả lời ngắn gọn: "Không" rồi tiếp tục cầu nguyện cho tới khi đến pháp trường Bảy Mẫu. Bà Maria Ơn có mặt tại buổi hành quyết thuật lại rằng : "Tôi thấy hai cha quỳ xuống, chắp tay lại, mắt hướng lên trời, lính cưa gẫy gông, chặt đứt xích sắt, trói tay vào cột rồi chém cổ hai cha". Sau khi thi hành án trảm, lý hình tung đầu hai cha lên cao ba lần và nói : "Đầu đạo trưởng đã bị chém đây".

Cha Tôma Đinh Viết Dụ hưởng thọ 56 tuổi, đã lãnh phúc tử đạo đúng vào năm kỷ niệm ngân khánh linh mục của cha. Một mùa ngân khánh được ghi vào lịch sử Giáo Hội. Thi thể hai cha được an táng ngay tại pháp trường. Đến tháng giêng năm 1841, tin hữu cải táng về Lục Thủy.

Đức Lêo XIII suy tôn linh mục dòng Đaminh, cha Tôma Đinh Viết Dụ lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Từ đó hài cốt vị tử đạo được đặt trong hòm gỗ sơn son thiếp vàng trưng bày tại đền thờ Phú Nhai. Muôn đời sẽ mãi mãi ghi nhớ hình ảnh người chứng nhân đức tin, một người con yêu của Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi.

Thánh Đaminh NGUYỄN VĂN XUYÊN
Linh mục dòng Đaminh - (1786 – 1839)

Ai ơi giữ lấy túi khôn,
Dẫy tràn tin cậy đầy lòng mến yêu.
Gươm đao đe đọa dẫu nhiều,
Quỷ ma cám dỗ sớm chiều đe loi.
Ai mà thắng được trên đời,
Mai sau hưởng phúc cõi trời cao sang.

Đó là những vần thơ lục bát do thánh Đaminh Xuyên sáng tác trong ngục tù, vừa diễn tả tâm tình của mình vừa khuyên nhủ các tín hữu đến thăm. Những vần thơ ngắn gọn nhưng cô đọng trọn vẹn triết lý sống của các vị tử đạo, lòng tràn đầy niềm tin yêu vượt qua mọi gian khổ để chiếm đoạt vinh quang nước trời.

Tấm lòng người tu sĩ áo trắng

Đaminh Nguyễn Văn Xuyên còn có tên là Doãn, sinh năm 1786 tại làng Hưng Hiệp, tỉnh Thái Bình. Thấy con có trí thông minh, cha mẹ cho cậu đi học chữ Nho, rồi gửi gấm cậu cho Đức cha Delgado Y dạy bảo. Được Đức cha nhắc nhở, cậu Xuyên chăm chỉ học hành, nhất là học giỏi giáo lý. Lớn lên, ngài cho anh vào chủng viện, và trao ban chức linh mục năm 1819. Ngày 20.4 năm sau, cha Xuyên tuyên khấn trong dòng thánh Đaminh. Từ đó, cha rất nhiệt thành phục vụ các giáo hữu, không ngừng đi nhiều nơi giảng tĩnh tâm, dạy giáo lý và sốt sắng cử hành phụng vụ bí tích.

Trước tiên, cha Xuyên coi xứ Phạm Pháo, tỉnh Nam Định, rồi về xứ Kẻ Mèn, Thái Bình trong ba năm. Tại đây, ngài lập họ đạo mới, họ Thanh Minh, chọn thánh Vinh sơn làm bổn mạng. Sau cha phụ trách xứ Đông Xuyên 13 năm. Thời gian này dân chúng bị hạn hán mất mùa nhiều năm, và bị giặc Phan Bá Vành quấy phá nên đói nghèo khổ sở. Có lần cha phải dốc cạn túi để giúp đỡ họ, có lần cha nhường phần cơm của mình… Bao giờ cha cũng để một ngân khoản riêng làm việc bác ái, từ thiện.

Cuối năm 1836, cha được bổ nhiệm làm phụ tá cha Fernandez Hiền tại chủng viện Ninh Cường giữa lúc cuộc bách hại của vua Minh Mạng gay gắt. Năm sau cha về làm quản lý giáo phận Đông Đàng Ngài, giúp Đức cha Delgado Y. khi Đức cha phải lưu lạc về Kiên Lao rồi bị bắt thì cha Xuyên vừa tìm chỗ ẩn trốn, vừa giúp xứ Hạ Linh. Tuy phải lang thang nay nhà này mai nhà khác, cha cũng phục vụ các tín hữu ở đây được khoảng một năm. Ngày 18.8, cha đến cử hành lễ mừng thánh Gioakim, bổn mạng họ Phú Đường (họ lẻ xứ Hạ Linh) thì bị bắt. Một giáo viên trước có dạy ở Bùi Chu biết mặt cha đã đi báo quan kiếm tiền thưởng.

Bền trí trung kiên…

Cha Xuyên dâng lễ gần xong, nghe tiếng loa gọi của quân lính, cha vội rước hết Mình Thánh rồi cởi áo lễ đi trốn. Nhưng không kịp nữa, quân lính đã tóm bắt cha và dẫn đến quan phủ. Quan phủ cười hỏi: "Đưa đây một số bạc, ta tha cho về". Cha trả lời: "Tôi chẳng có đồng nào trong người, nếu quan tha tôi cám ơn, nếu quan bắt tôi xin chịu". Về sau giáo hữu Hạ Linh góp tiền đem đến chuộc, nhưng quan phủ không dám thả nữa vì trên tỉnh đã biệt.

Khi nghe thuật lại chuyện, cha Xuyên an ủi họ : "Anh em hãy để tiền lo cho giáo xứ thì hơn, đừng tốn tiền chuộc tôi làm chi vô ích. Ý Chúa đã muốn, chẳng ai làm khác được. Anh em cứ bình an về nhà, nhớ cầu nguyện cho tôi chịu sự khó cho nên". Thế rồi cha mang gông nặng theo lính về Nam Định.

Biết cha là quản lý tòa Giám mục, Tổng đốc Trịnh Quang Khanh không những bắt cha bỏ đạo mà còn muốn khai thác các tài sản giáo phận. Lần đầu tiên khi ra lệnh đánh đòn, Tổng đốc đứng ngay bên thúc giục: "Đánh nữa, mạnh lên cho đến khi nó chịu khai và xuất giáo". Người chiến sĩ đức tin chỉ biết kêu tên cực trọng "Giêsu, Maria, xin cứu con !", cho đến khi bất tỉnh phải khiêng về ngục.

Những lần sau ngài cố gắng cắn răng chịu đựng không kêu một tiếng, cũng chẳng tiết lộ điều gì về giáo phận. Quan tổng đốc cho dùng những cực hình đã man hơn : lấy sắt nung đỏ dí vào cháy từng miếng thịt, cầm kìm nguội, kẹp hay cắt nhiều chỗ trên thân thể … Nhưng cha can đảm gắng sức nói thẳng với quan: "Dù sống dù chết, tôi cũng không bỏ đạo. Tôi chọn cái chết để sống đời đời, hơn là nghe quan sống thêm ít lâu mà muôn đời bị tiêu diệt".

Nhiều lần quá đau đớn ngất xỉu giữa cuộc tra tấn. Sợ vị quản lý giáo phận chết sớm, Tổng đốc sai lính đưa cha về ngục, cho mời lang y chữa trị để mong biết được những tài sản mà ông tưởng là vô số. Đến khi cha Xuyên bình phục, quan lại đưa ra khảo nữa, nhưng ông phải thất vọng vì thực sự giáo phận chẳng có gì để khai, mặt khác, chẳng bao giờ cha chịu khuất phục bỏ đạo.

Phần thưởng nước trời

Ngày 25.10, quan Tổng đốc lập bản án trảm quyết gởi về kinh đô. Tháng sau bản án của cha Xuyên và cha Dụ trở lại Nam Định. Những ngày cuối, hai cha được giam chung một phòng, tay bắt mặt mừng, xưng tội với nhau, an ủi khích lệ nhau vững chí đến cùng.

Ngày 26.11.1839, hai cha bị dẫn đi xử. Giữa đám quân lính đông đảo võ trang voi ngựa, hai vị chứng nhân Đức Kitô đi bộ mang gông, nhưng bình tĩnh vui vẻ, vừa đi vừa cầu nguyện cho tới pháp trường Bảy Mẫu. Dân chúng đi xem đều bỡ ngỡ thán phục. Quan hỏi lại lần chót có muốn xuất giáo để được tha không. Hai vị trả lời: "Không", rồi đưa tay cho lính trói vào cọc đã chôn sẵn.

Hai nhát gươm cùng vung lên, hai tôi tớ Chúa được lãnh triều thiên tử đạo tiến thẳng về Trời. Cha Xuyên với 53 tuổi đời, phục vụ Chúa trong chức vụ linh mục được 20 năm. Thi thể ngài được an táng ngay tại đó. Tháng giêng năm 1841, tín hữu cải táng hài cốt ngài về Lục Thủy.

Đức Lêo XIII suy tôn cha Đaminh Nuyễn Văn Xuyên, linh mục dòng Thuyết giáo lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.
 

langvuon

khoai nướng
#27
Ðề: Những ngày lễ Công Giáo tháng 11

Thứ Bảy ngày 27 tháng 11 năm 2010
Ngày 22 tháng 10 năm Canh Dần
Thứ Bảy sau Chúa Nhật thứ XXXIV Mùa Thường Niên
Kh 22: 1-7 Tv 95: 1-2, 3-5, 6-7 Lc 21: 34-36
HẾT NĂM PHỤNG VỤ C

Chúa Nhật ngày 28 tháng 11 năm 2010
Ngày 23 tháng 10 năm Canh Dần
Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng
Gr 33: 14-16 Tv 25: 4-5, 8-9, 10-14, 13 Lc 21: 25-28, 34-36
Kính thánh tử đạo Anrê Trần Văn Trông, Quân nhân
NĂM PHỤNG VỤ A

Thánh Anrê TRẦN VĂN TRÔNG
Quân nhân - (1814 – 1835)

Trong vòng tay người mẹ

Trong hành tích thánh Anrê Trần Văn Trông, người quân nhân xứ Huế, ta thấy nổi bật lên chân dung của một bà mẹ. Đức Giáo Hoàng Lêo XIII ca tụng bà đã thể hiện lòng can trường "theo gương Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo". Như Đức Maria dưới chân Thánh Giá dâng hiến Người Con Yêu Dấu, bà mẹ đó cũng có mặt trong cuộc hành quyết để hiến dâng người con trai duy nhất của mình. bà đi bên cạnh con, không than khóc không sầu buồn, trái lại còn bình tĩnh vui vẻ khuyên con hãy bền chí đến cùng.

Khi đầu Anrê Trông rơi xuống, bà mạnh dạn bước vào pháp trường kêu lớn tiếng trước mặt các quan : "Đây là con tôi, đứa con mà tôi đã cưu mang dưỡng dục. Giờ này nó vẫn là con tôi, xin các ông trả lại tôi cái dầu của con tôi". Nói xong, bà mở rộng vạt áo, bọc lấy thủ cấp đẫm máu của người con yêu quý, rồi đêm về mai táng trong nhà.

Tuổi xuân ước mơ.

Anrê Trần Văn Trông sinh năm 1814 trong một gia đình Công Giáo ở Kim Long, Phú Xuân (Huế). Cậu là con trai duy nhất trong nhà, thế mà năm 15 tuổi, người cha lại mất sớm, khiến gia đình lâm cảnh mẹ góa con côi. Để giúp mẹ mưu sinh, Anrê Trông đành giã từ sách đèn, theo chân bà con lối xóm về họ Thợ Đúc dệt tơ cho hoàng gia. Là người ngay thật, cậu không ăn bớt của công, luôn chăm chỉ làm việc và ưa những chuyện gây gỗ, bất hòa. Mỗi buổi chiều, sau những giờ lao động mệt mỏi, cậu thường vác cần câu đến ngồi bên bờ sông Hương xanh biếc, để được gần gũi với thiên nhiên.

Sử gia Rodriguez đã diễn tả tâm trạng của cậu qua những vần thơ sau (Martirologie III, pp. 158 – 159):

"Ôi êm đềm cảnh thiên nhiên trầm lặng,
Dưới ngàn cây râm mát thoảng hương hoa,
Nước lung linh nghe thanh thản tâm hồn,
Sông in dáng bóng non xanh xanh biếc…"

Nhưng cuộc đời êm ả đó không kéo dài được lâu mãi. Đồng lương ít ỏi của người thợ dệt tơ không đủ nuôi sống gia đình. Năm 20 tuổi, Anrê Trông đành giã từ mẹ lên đường nhập ngũ.

Xông vào cuộc chiến

Sau tám tháng phục vụ trong quân đội, tháng 11.1834, triều đình ra lệnh những binh sĩ Công Giáo phải ra trình diện. Không chút e dè, Anrê Trông với 12 đồng đội cùng ở khu Thợ Đúc đến "ra mắt" quan. Quan yêu cầu các anh phải tuân lệnh nhà vua bỏ đạo và đạp lên Thánh Giá. Cả 13 chiến sĩ Công Giáo đều cương quyết khước từ. Các quan bèn dùng biện pháp tra tấn dã man… lần lượt 12 người bỏ cuộc, chỉ còn mình Anrê Trông vẫn trung kiên đến cùng. Quân lính trói anh lại khiêng qua Thánh Giá, nhưng anh co chân lên quyết không xúc phạm đến ảnh Chúa. Thế là từ trại lính, anh bị tống qua trại giam. Các quan kết án tử hình, nhưng còn giam hậu, nghĩa là chưa xử ngay.

Suốt một năm bị giam trong ngục, Anrê Trông chịu nhiều điều cơ cực khổ sở, nhưng niềm tin của anh qua những thử thách đó càng ngày càng vững mạnh. Anrê sốt sắng cầu nguyện và đặc biệt phó thác đời mình cho Đức Mẹ, xin Chúa vì lời Mẹ Maria chuyển cầu ban cho ơn trung tín đến cùng. Những món qùa tiếp tế nhận được, anh chia sẻ cho các bạn tù và lính canh ngục, nên được họ quý mến. Cũng chính nhờ đó, anh có cơ hội đặc biệt để đi xưng tội, rước lễ và thăm mẹ.

Khi biết tin có cha Ngôn đang hoạt động ở Phú Xuân, anh Trông liền xin viên cai ngục và được phép về nhà một ngày dưới sự giám sát của một người lính. Nhờ đã dò hỏi rõ nơi ở của vị linh mục, Anrê Trông và người lính chèo thuyền đến bến đò kia vào giữa trưa. Lúc đó, mọi người dân chài đã lên bờ ăn uống nghỉ ngơi. Anh Trông liền bước qua thuyền của cha Ngôn, đẩy thuyền trôi nhẹ ra giữa dòng. Hai người nhỏ to "Tâm sự" và anh quỳ xuống lãnh phép lành tha tội. Xưng tội xong, anh ngỏ ý xin rước lễ, cha Ngôn hẹn anh sáng hôm sau tại Kẻ Văn. Thế rồi anh và người lính tiếp tục chèo thuyền về Kim Long. Hai người lên bờ và ngủ tại nhà mẹ một đêm. Tả sao cho siết niềm vui của hai mẹ con được tái ngộ trong hoàn cảnh bất ngờ này. mẹ anh đã hết lời khích lệ động viên anh kiên tâm vì đức tin.

Tảng sáng hôm sau, anh Trông và người lính gác vội vã chèo thuyền đến điểm hẹn. Gặp lại vị "khách quý", anh liền quỳ xuống lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Cha Ngôn chúc lành : "Ước gì Mình Thánh Chúa Giêsu Kitô sẽ gìn giữ con đến cuộc sống muôn đời". Anh thưa: "Amen". Rồi trong niềm hân hoan vì hồng phúc mới lãnh nhận, anh vui vẻ trở về trại giam như lời hứa với viên cai ngục.

Nỗi lòng hai mẹ con

Sau một năm tù, không hy vọng gì Anrê Trông thay đổi ý kiến, các quan quyết định ngày xử là 28.11.1835. Sáng hôm đó, người chiến sĩ đức tin gặp được người anh họ mình. Anh ta hỏi có muốn ăn gì không ? Anrê Trông trả lời: "Em muốn ăn chay để dọn mình tử đạo", rồi nói tiếp: "Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em cả, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện, và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa cho đến chết".

Nhưng thực tế, người anh họ chưa kịp nhắn lại. Bà mẹ Anrê Trông khi hay tin con bị đem đi xử, liền vội vã ra đón con ở đầu chợ, nơi con sắp đi qua, gặp con, bà chỉ hỏi một câu vắn tắt : "Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù con có nợ nần ai chăng, nếu có thì cho mẹ hay, mẹ sẽ trả thay con". Tấm lòng người mẹ là thế đấy. Bà biết rõ con của mình đủ can đảm chịu mọi đau đớn, giờ đây bà chỉ lo cho con về đức công bình.

Khi được con cho biết không vướng gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh thêm lời khích lệ. đến nơi xử, sau khi quân lính tháo gông xiềng, người chiến sĩ đức tin liền đón lấy, trao cho người lính cạnh bên và nói : "Xin nhờ anh đưa dùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm". Mẹ anh đứng gần nên nghe rất rõ, nhưng bà chưa lấy kỷ vật đó làm đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa.

Chiêng trống nổi lên, lý hình vung gươm, dầu vị tử đạo 21 tuổi rơi xuống. Bà mẹ anrê Trông chứng kiến ngay từ giây phút đầu tại pháp trường, bà thỏa lòng dù rất khổ đau, bước ra đòi viên chỉ huy trao thủ cấp con bà. Bọc trong vạt áo rồi ghì chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lắp lại : "Ôi con yêu quý của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ nhé !".

Ngày 27.5.1900, Đức Lêo XIII suy tôn người chiến sĩ anh hùng Anrê Trông lên hàng Chân Phước. Ngài không ngớt lời ca ngợi mẫu gương của bà mẹ hào hùng, đã họa lại gần trọn vẹn hình ảnh Đức Maria, Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo xưa trên đỉnh Can-vê.

Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
 

langvuon

khoai nướng
#28
Ðề: Những ngày lễ Công Giáo tháng 11

Thứ Hai ngày 29 tháng 11 năm 2010
Ngày 24 tháng 10 năm Canh Dần
Thứ Hai sau Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng
1Ga 2: 3-11 Tv 96: 1-2, 2-3, 5-6 Lc 2: 22-35

Thứ Ba ngày 30 tháng 11 năm 2010
Ngày 25 tháng 10 năm Canh Dần
Thứ Ba sau Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng
Lễ kính Thánh Andrê, Tông Đồ
Rm 10: 9-18 Mt 4: 18-22
Kính thánh tử đạo Giuse Du, Lm

THÁNH ANRÊ Tông đồ (St. Andrew)


Chúa đã chọn các tông đồ để tiếp nối sứ mạng rao giảng Tin Mừng và góp tay vào công trình cứu độ của Thiên Chúa.Chúa tuyển chọn các tông đồ thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội.Chúa chọn các tông đồ với ơn huệ nhưng không của Ngài.Chúa muốn chọn ai tùy ý Chúa


THÁNH ANRÊ

Theo tiếng Hy Lạp,Anrê có nghĩa là trượng phu và thanh nhã.Thánh Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Anrê và một tông đồ khác với Chúa Giêsu.Thánh nhân đã đáp trả lại lời mời gọi của Chúa Giêsu:"Hãy theo Ta,Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành ngư phủ lưới người ta".Anrê và Phêrô đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu.Thánh Anrê đã được nhắc nhớ nhiều lần trong các sách Tin Mừng của Chúa Giêsu.Chúa Giêsu đã nói tiên tri về thành thánh Giêrusalem,Anrê đã thắc mắc hỏi Chúa Giêsu khi nào thì sẽ xẩy ra như lời Chúa nói.Sau khi Chúa sống lại,các tông đồ nghe lời Chúa ở lại Giêrusalem để lãnh nhận Chúa Thánh Thần và sau đó ra đi loan báo Tin Mừng.S ử liệu ít ghi lại về công cuộc truyền giáo của các ngài nơi nhiều vùng đất, nơi nhiều nước trên thế giới.Nhưng có đoạn viết đã tường thuật về cuộc tử đạo của thánh Anrê tông đồ.Thánh nhân đã dứt khoát không chịu để cho người ta thương ngài xin quan tha chết cho ngài. Ngài đã dứt khoát chịu chết để được nên giống Chúa Giêsu.Chúa đã chấp nhận lời ngài kêu xin,Ngài đã không chịu khuất phục quan lãnh sự Akai và chấp nhận cái chết như lời Chúa Giêsu đã nói:"Khi nào Ta được giương cao khỏi đất,Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta".Thánh nhân đã được Chúa cho đội mũ triều thiên công chính.Giáo chủ thành Alexandrie năm 357 đã đem hài cốt Ngài về Constantinople.

LỜI CẦU NGUYỆN

Vì muốn nên giống Chúa Giêsu,thánh nhân đã liều mình,hy sinh chịu chết:"Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng vì người mình yêu"(Ga 15,13).Thánh nhân đã cảm nghiệm sâu xa lời:" vì Người mà tôi chịu đau khổ,tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi"( 2Tm 2,9 ).Và như thế,Ngài cảm nghiệm:Ðức Giêsu,Ðấng"chúng ta sẽ cùng hiển trị với Người,nếu Ta kiên tâm chịu đựng"( 2Tm 2,12 ).

Lạy Chúa,hôm nay chúng con mừng kính thánh Anrê, người ngư phủ đã tin Ðức Giêsu là Ðấng Mêsia và mau mắn giới thiệu cho em mình.Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố niềm tin của chúng con để chúng con cũnng chia sẻ niềm tin của mình cho những người chúng con gặp gỡ.( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Anrê,tông đồ).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT



Thánh Giuse MARCHAND DU
Linh mục thừa sai Paris - (1803 – 1835)

Người tử hùng bá đao

Trong 117 thánh tử đạo Việt Nam, cuộc tử đạo của thánh Marchand Du mang màu sắc bi tráng nhất. Với gần ba tháng trong chiếc cũi chật hẹp, và những cuộc tra tấn chết đi sống lại, ngài là vị duy nhất bị án bá đao, nghĩa là bị cắt xẻo 100 nhát trước khi bị chặt ra làm bốn phần, còn thủ cấp bị nghiền nát đổ xuống biển.

Tuy nhiên, chúng ta không nên quá nhấn mạnh đến những đau thương trong cuộc tử nạn, mà quên mất chứng từ đời sống của thánh nhân : sự nhiệt tâm truyền giáo, lòng yêu mến các tín hữu và chí cương quyết chỉ phục vụ Tin Mừng.

Mong ước tuổi xuân

Đầu thế kỷ XIX, tại làng Passavant, nước Pháp, nhiều người đã phải ngạc nhiên khi thấy hành vi của một cậu bé chưa đầy mười tuổi : sau giờ học, cậu rủ các bạn hữu về nhà, khiêng bàn, trải khăn làm bàn thờ, trang hoàng hoa nến, đặt cây Thánh Giá, rồi bắt trước các cử điệu như khi linh mục dâng lễ Missa cho các bạn xem. Đó là cậu bé Giuse Marchand.

Mở mắt chào đời ngày 17.8.1803 tại làng Passavant, tỉnh Doubs. Ngay từ niên thiếu, dân làng đã thấy rõ ước muốn trở thành linh mục của cậu. Sau khi rước lễ lần đầu, cậu xin cha mẹ đi tu, nhưng vì gia đình làm nghề nông túng nghèo, thiếu người lao động, nên cha mẹ cậu tìm cách trì hoãn cho cậu đổi ý. Tuy nhiên, Marchand đã không thay đổi ý định, cậu kiên quyết hoàn thành mộng ước tuổi xuân, và cuối cùng bên người đổi ý là song thân của cậu. Năm 18 tuổi, Marchand gia nhập chủng viện giáo phận Besacon. Năm 1828, sau khi lãnh chức phó tế, thày Marchand xin chuyển sang Hội Thừa Sai Paris. Độ nửa năm, thày được thụ phong linh mục (04.4.1829), sau đó một tháng thì đáp tàu đi Macao đến Việt Nam giảng đạo.

Nhà du thuyết nhiệt tâm

Tháng 3.1830, cha Marchand vào tới Việt Nam, và lấy tên mới là Du. Sau một thời gian học tiếng và phong tục Việt Nam tại Lái Thiêu, cha du được cử tới Pnom-Pênh để coi sóc các tín hữu Việt Nam tại đây (khi đó đất Campuchia thuộc giáo phận Đàng Trong). Thế rồi ít lâu, cha được gọi về Lái Thiêu coi sóc các chủng sinh, đồng thời phụ trách 25 giáo họ, với khoảng 7000 tín hữu thuộc tỉnh Bình Thuận.

Trong thư đề ngày 13.6.1832 gởi về quê nhà cha viết : "… 25 giáo họ cách nhau rất xa. Muốn chu toàn bổn phận, con không thể bỏ phí một giây nào… từ năm giờ sáng đến chín giờ tối, nhiều ngày chẳng có lúc nào rảnh rỗi cả. Con chỉ có thể dành chút thời giờ chu toàn việc đạo đức riêng lo cho phần rỗi mình, còn thì luôn luôn phải làm việc để thánh hóa kẻ khác… Con chỉ tiếc một điều là không thể tận tụy hơn được nữa, để vừa giúp giáo dân, vừa giúp lương dân, lại cón phải bắt buộc di chuyển bằng thuyền, nên không thể đi mọi nơi, hầu dẫn về đoàn chiên Chúa Giêsu những con chiên bất hạnh lạc đường…".

Cha Du mới đi hết 25 giáo họ này được hai lần thì ngày 16.1.1833 vua Minh Mạng ra chiếu chỉ lùng bắt các giáo sĩ Âu Châu. Đức cha Tabert Từ, cha Cuénot Thể và các thừa sai dẫn theo các chủng sinh trốn qua Thái Lan. Chỉ mình cha Du nhất nhất quyết ở lại, ẩn tránh ở miền Lục Tỉnh, giúp các họ Cái Nhum, Cái Mơn, Bãi Xan, Giồng Rùm, và trú ngụ tại Mặc Bắc, Vĩnh Long.

Tôi chỉ biết một điều là giảng đạo

Lê văn Khôi thực ra có họ Nguyễn, từng nổi loạn ở Cao Bằng, sau ra đầu thú, được Tả quân Lê Văn Duyệt nhận làm con nuôi, mới đổi qua họ Lê. Lợi dụng việc vua Minh Mạng xử tệ với Tả quân (khi đó đã thất lộc cho đánh trên mộ 100 trượng), Lê văn Khôi liền lấy cớ phò cháu đích tôn của vua Gia Long, con hoàng tử Cảnh tên là Đản. Việc bại lộ, khôi bị bắt. Đến 05.7.1833, ông với khoảng 30 bạn tù vượt ngục, giết một vài quan, thả các tù nhân khác, rồi chiêu binh chiếm Phiên An (sài Gòn) và miền Lục Tỉnh.

Lê Văn khôi tuy ngoại đạo, ngưng đã khôn khéo hứa hẹn bãi bỏ các lệnh cấm đạo của vua Minh Mạng, nên một số tín hữu theo ông. Để có thể quy tụ nhiều người Công Giáo hơn ủng hộ mình, Lê Văn Khôi cho mời cha Du về Sài Gòn, cha từ chối. sau vì một số tín hữu Chợ Quán nói : "Nếu cha không chịu về, sợ quan giận mà chém hết bổn đạo trong thành. Ở đó bổn đạo cũng đông lắm…". Thế là cha Du đành lòng về xứ Chợ Quán ở nhà thờ cha Phước, nhưng rất ít khi ở nhà, cha lo đi thăm các gia đình tín hữu. Lê văn Khôi nhiều lần mời, cha vẫn không chịu vào trong thành.

Khi quân triều đình vây thành Gia Định, Khôi cho quan đem voi ra Chợ Quán bắt ép cha Du phải vào thành. Cha Phước và nhiều tín hữu cũng theo vô. Trong thành, tướng Khôi xử đãi cha khá rộng rãi, có nhà riêng để dâng lễ hàng ngày, các tín hữu có thể tụ tập ở đó để đọc kinh, nghe giảng và lãnh các bí tích. Khôi có ý mua chuộc để cha tiếp sức, nhưng trước sau cha chỉ nói : "Tôi chỉ biết việc đạo, còn nghề giặc giã binh lính, tôi không rành".

Một hôm cha được mời vào dinh nguyên soái. Một xấp thư kêu gọi dân chúng và tín hữu nổi dậy chống nhà vua để trên bàn. Tướng khôi xin cha ký tên. Vị linh mục thấy rõ đã đến lúc tỏ rõ lập trường của mình, liền đứng dậy cầm xấp thư, ném tất cả vào lửa. Dầu vậy quân của Khôi không dám làm gì cha, vì sợ các tín hữu trong đội quân sẽ chống lại.

Sau hơn hai năm vây hãm, ngày 08.9.1835 quân chiều đình đã chiếm lại được thành Phiên An. Cha Du vừa cử hành thánh lễ xong thì bị bắt, bị đánh đập và bị nhốt vào cũi nhỏ, dài một mét (1m), rộng bảy tấc (0.7m), cao tám tấc (0.8). Đó sẽ là "nhà ở" của cha cho đến ngày xử tử, căn nhà mà chủ nhân chỉ có thể ngồi khom lưng suốt ngày đêm.

Số người bị tàn sát lên đến 1994, trong đó có 66 tín hữu (chỉ có 20 nam, còn bao nhiêu là phụ nữ và trẻ em), cha Phước cũng bị xử lăng trì (chặt chân tay, rồi chẻ thân hình làm bốn). Cha Du được đưa ra xét xử :

- Giặc đã đem thày vào thành, thày không làm gì để chúng giúp chúng sao?
- Tôi chỉ lo việc giảng đạo mà thôi…
- Giảng đạo là giống gì ?
- Là đọc kinh, làm lễ và dạy dỗ bổn đạo.
- Thày có biết làm thuốc mê để dỗ lòng ngụy cho nó theo không?
- Tôi chỉ biết có một việc là giảng đạo mà thôi.

Sau hai cuộc tra vấn nữa, cha Du bị giam trong cũi và bị áp giải về kinh đô cùng với tổng Trắm, đồ Hoành bốn Bang, phó Nhã và con trai Lê văn Khôi là Lê văn Viên mới bảy tuổi. Đoàn người vế tới Phú Xuân ngày 15.10, cha du bị gaim trong ngục Võ Lâm gần tòa Tam Pháp.

Đàng sau bản án phản loạn.

Hôm sau 16.10, cha Du bị đưa ra tòa Tam Pháp. Các quan cố ép cha nhận tội giúp Khôi làm loạn. Nhưng cha khẳng định : "Tôi chỉ lo cầu nguyện cùng Chúa và làm lễ thôi". Quan hạch hỏi: - Có phải người gửi thư vô Xiêm, cùng gửi thư cho quân Gia Tô trong Đồng Nai, biểu nó đến giúp ngụy không ?

Cha Du trả lời : "Ông Khôi có yêu cầu tôi viết thư, song tôi không chịu viết, một nói cho ông ấy hay : Đạo tôi cấm làm như vậy và tôi thà chết chẳng thà làm theo lời ông ấy. Dầu thế ông Khôi còn đêm mấy bức thư ra, biểu tôi ký tên vào, thì tôi lấy mấy cái thư ấy mà đốt đi trước mặt ông ấy".

Để bắt cha nhận tội, tối hôm sau, các quan dùng đủ cực hình kìm kẹp : Họ cho nung đỏ kìm sắt và cho kẹp hai lần vào hai đùi cha, rồi giữ nguyên cho tới khi kìm nguội. Một lần như vậy mùi thịt cháy xông lên khét lẹt, chính quân lính cũng phải quay mặt đi. Vị anh hùng đức tin hai lần ngất xỉu, nhưng vẫn giữ nguyên lời khai cũ. Họ đành nhốt cha vào cũi lại, rồi đưa về ngục.

Để tạo chứng gian buộc tội cha, các quan dỗ con trai Lê văn Khôi, hứa trả tự do nếu khai rằng "Ông thày Tây" giúp cha em khởi nghĩa. Nhưng cậu bé bảy tuổi ấy không biết nói dối, cậu nói cha Du hoàn toàn vô can, dầu cha cậu có hứa hẹn, khuyên dụ nhiều phen.

Cuối cùng, các quan đành xoay qua "tội giảng đạo". Họ nhắc đến chiếu chỉ nhà vua, và hứa ân xá nếu cha bước qua Thánh Giá. Cha Du cám ơn quan và tuyên bố sẵn sàng chịu cực hình, chứ không thể thất trung với Chúa. họ lại tiếp tục nhốt cha trong cũi. Sáu tuần lễ ở kinh đô đã trôi qua như thế. Các tín hữu ghé vào thăm và tiếp tế cho cha, đều thuật lại rằng : "Cha Du vẫn luôn vui vẻ và thường cầm cuốn sách nhỏ để đọc đêm ngày".

Thừa lệnh vua Minh Mạng, bản án cuối cùng được viết như sau : "Tây dương ma Sang kêu là danh Du, Gia Tô đạo trưởng, phò ngụy Khôi, nhận tội viết thư xin Hồng Mao (nước Anh) và Xiêm La (Thái Lan) sang giúp ngụy thần. Lệnh xử bá đao".

Chết vì lý do tôn giáo

Sáng sớm 30.11.1835, bảy phát súng thần công nổ vang kêu gọi mọi người đến tham dự cuộc xử án. Cha Du, ba vị tướng của Khôi và em Lê Văn Viên được đưa ra khỏi cũi (phó Nhã đã chết trong ngục), mọi người chỉ được đóng khố, rồi dẫn đến cửa Ngọ Môn trình diện và phục lạy vua năm lạy. Vua Minh Mạng tỏ vẻ giận dữ ném chiếc cờ hiệu xuống đất. Đó là dấu không ân xá lần cuối, năm tội nhân được đưa ra pháp trường. Riêng cha Du, theo mật lệnh, được đưa vào tòa Tam Pháp tra khảo một lần nữa. Đọc nội dung cuộc tra khảo này, chúng ta thấy quan quân không đá động gì đến lý do chính trị cả !

Năm người lính cầm năm kìm nung đỏ kẹp vào bắp vế cha. phía sau là năm người lính khác cầm roi để năm lý hình không được phép nương tay. Ba lần kìm kẹp, thân thể cha Du có đủ 15 vết bỏng. Song song với cuộc tra tấn là mẫu đối thoại sau :

- Tại sao Gia Tô móc mắt mấy người gần chết?
- Không có, không bao giờ tôi thấy điều đó.
- Tại sao mấy người kết hôn lại phải đến các thày đạo trước bàn thờ ?
- Họ đến để thày cả chúc phúc và chứng nhận trước mặt các tín hữu ở đó.
- Khi làm yến tiệc trong nhà thờ, bay làm những sự quái gở lắm phải không ?
- Không, chẳng có những điều quái gở.
- Vậy sao có thứ bánh dùng làm bùa mê thuốc lú để phát cho những đứa đã xưng tội mà làm nó mê đạo đến thế?

Cha Du kiệt sức không thể trả lời được nữa. Lính dọn cho tử tội bữa ăn sau cùng, nhưng cha không dùng chi cả, chỉ lo cầu nguyện với Chúa. Sau đó, lính đưa các tử tội đến pháp trường tại họ Thợ Đúc bên sông Hương, cách kinh thành một dặm đường.

Chết như một tội nhân

Năm cây cọc đã cắm sẵn. Lính trói năm tử tội, cha Du bị trói vào cây cọc thứ hai. Ngài bị án "Phản loạn" và sẽ chết giữa những người phản loạn. Dân chúng bị đuổi lùi ra xa 30 thước. Cứ mỗi tử tội lại có ba lý hình, một cầm kìm, một cầm đao, còn một lo đếm số cho đủ 100 lát cắt. Trước đó, lính đã nhét vào miệng tội nhân và cột chặt, để không ai có thể kêu la được nữa.

Sau một hồi trống, lý hình cắt lớp da trên trán cha Du lật xuống che mặt, rồi cắt từng mảnh hai bên ngực, sau lưng, tay chân. Quá đau đớn, vị chứng nhân giẫy giụa, quằn quại, ngước mắt lên trời cao rồi gục đầu xuống nhắm mắt lìa đời. Tiếp theo quân lính cắt đầu của ngài, cởi dây, bổ thân mình làm bốn, và ném xuống biển chung với bốn tử tội kia. Còn thủ cấp cha, được đưa đi bêu ở nhiều nơi, rồi được trả về kinh đô, bị bỏ vào cối giã nát và cho rắc xuống biển.

Ngày 30.11.1835 cũng là ngày kính thánh Anrê. Các thánh lễ hôm đó đều đọc lại đoạn sách Isaia (Is. 52,7): "Đẹp thay bước chân người rao giảng Tin Mừng" như lời chúc tụng vị thừa sai đã hoàn tất sứ mạng tông đồ của mình. Giáo Hội đã rất thận trọng khi nghiên cứu hồ sơ cha Marchand Du, căn cứ vào các buổi tra khảo, nhất là cuộc thẩm vấn cuối cùng, Giáo Hội khẳng định ngài đã hiến mạng sống vì đức tin. (2)

Đức Lêo XIII đã suy tôn linh mục Marchand Du lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
 

langvuon

khoai nướng
#29
Ðề: Những ngày lễ Công Giáo tháng 11

01 NOV 2010 CÁC THÁNH NAM NỮ, Lễ Trọng
02 NOV 2010 Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời

03 NOV 2010 Thánh Martin đệ Porres, Tu Sĩ
04 NOV 2010 Thứ Năm Đầu Tháng. Cầu cho các linh mục
05 NOV 2010 Thứ Sáu Đầu Tháng. Đền tạ Trái Tim Chúa Giêsu
06 NOV 2010 Thứ Bảy Đầu Tháng. Đền tạ Trái Tim Đức Mẹ

07 NOV 2010 Chúa Nhật thứ XXXII Mùa Thường Niên. Thánh Vịnh Tuần IV
08 NOV 2010 Thứ Hai sau Chúa Nhật thứ XXXII Mùa Thường Niên
09 NOV 2010 Lễ kính Cung hiến Thánh đường Thánh Gioan Latêranô
10 NOV 2010 Lễ nhớ Thánh Lêo Cả, Ghts
11 NOV 2010 Lễ nhớ Thánh Martinô thành Tours, Gm
12 NOV 2010 Lễ nhớ Thánh Josaphat, Gmtử đạo
13 NOV 2010 Thánh Frances Xavier Cabrini, Đt
14 NOV 2010 Kính trọng thể CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
15 NOV 2010 Thánh Albertô Cả, Gmtsht
16 NOV 2010 Thánh Margaret nước Tô Cách Lan, Gertrude, Đt
17 NOV 2010 Lễ nhớ Thánh Elizabeth nước Hungary, Tu Sĩ
18 NOV 2010 đền thờ Thánh Phêrô & Phaolô
19 NOV 2010 Thứ Sáu sau Chúa Nhật thứ XXXIII Mùa Thường Niên
20 NOV 2010 Kính thánh tử đạo Phanxicô Xaviê Cần, Thầy giảng

21 NOV 2010 LỄ CHÚA KITÔ VUA, Lễ Trọng
22 NOV 2010 Lễ nhớ Thánh nữ Cêcilia, Đttđ
23 NOV 2010 Thánh Clementô I, Ghtđ, Columban, Tu Viện Trường, Chân Phước Miguel Pro, Lmtđ
24 NOV 2010 Kính trọng thể CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
25 NOV 2010 Thứ Năm sau Chúa Nhật thứ XXXIV Mùa Thường Niên
26 NOV 2010 Kính thánh tử đạo Tôma Đinh Viết Dụ, Đaminh Nguyễn Văn Xuyên, Lm

27 NOV 2010 Thứ Bảy sau Chúa Nhật thứ XXXIV Mùa Thường Niên
28 NOV 2010 Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng

29 NOV 2010 Thứ Hai sau Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng
30 NOV 2010 Lễ kính Thánh Andrê, Tông Đồ
 

langvuon

khoai nướng
#30
Thứ Tư 01/12
Thứ Tư sau Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng
Is 25: 6-10 Tv 23: 1-3, 3-4, 5, 6 Mt 15: 29-37

Thứ Năm 02/12

Thứ Năm Đầu Tháng. Cầu cho các linh mục
Is 26: 1-6 Tv 118: 1, 8-9, 19-21, 25-27 Mt 7: 21, 24-27

Thứ Sáu 03/12
Thứ Sáu Đầu Tháng. Đền tạ Trái Tim Chúa Giêsu, mis.imp
Lễ kính Thánh Phanxicô Xaviê, Lm
Is 29: 17-24 Tv 27: 1, 4, 13-14 Mt 9: 27-31

Thánh Gioan ở Damascus
(676?-749)


Hầu như toàn thể cuộc đời của Thánh Gioan là sống trong tu viện St. Sabas, gần Giêrusalem, và dưới chế độ của Hồi Giáo. Theo các sử gia, khi Damascus rơi vào tay người Ả Rập, thì tổ tiên của Thánh Gioan là những người duy nhất còn trung thành với đức tin Kitô Giáo và họ được làm việc trong toà án để giúp vua Hồi Giáo áp dụng luật lệ Kitô Giáo đối với các Kitô Hữu. Sau khi được giáo dục về thần học và kinh điển, Thánh Gioan theo cha ngài giữ một chức vụ trong chính quyền của người Ả Rập. Vài năm sau, ngài từ chức và gia nhập tu viện St. Sabas.

Ngài nổi tiếng trong ba lãnh vực. Thứ nhất, về các văn bản của ngài chống với những người không muốn tôn kính ảnh tượng thánh (iconoclast). Thật ngược đời, chính hoàng đế Leo của người Kitô Giáo Ðông Phương đã cấm việc tôn kính này, và vì Thánh Gioan sống trong lãnh thổ của người Hồi Giáo nên không ai làm gì được. Thứ hai, ngài nổi tiếng về luận án, Luận Về Ðức Tin Chính Thống, một tổng hợp các văn bản của Giáo Phụ Hy Lạp (mà ngài là người sau cùng). Người ta nói quyển sách này làm nền tảng cho tư tưởng Ðông Phương cũng giống như cuốn Tổng Luận (Summa) của Thánh Aquinas làm nền tảng cho Tây Phương. Thứ ba, ngài là một thi sĩ nổi tiếng, là một trong hai đại thi hào của Giáo Hội Ðông Phương. Ngài rất sùng kính Ðức Mẹ và các bài giảng của ngài về Ðức Mẹ cũng rất nổi tiếng.

Lời Bàn

Thánh Gioan bảo vệ Giáo Hội về việc tôn kính ảnh tượng thánh và giải thích đức tin Kitô Giáo trong một vài sự tương tranh. Trên 30 năm ngài sống đời cầu nguyện cũng như sáng tác. Sự thánh thiện của ngài được tỏ lộ qua các bài giảng cũng như văn bản nhằm phục vụ Thiên Chúa.

Lời Trích

"Các thánh phải được tôn vinh như những người bạn của Ðức Kitô và là miêu duệ của Thiên Chúa, như Thánh Sử Gioan đã viết: 'Càng nhận được nhiều bao nhiêu, Ðức Kitô lại càng ban cho họ bấy nhiêu để họ trở nên con cái Thiên Chúa&' Chúng ta hãy thận trọng quan sát đời sống của các tông đồ, các vị tử đạo, các vị khổ tu và người công chính, họ là những người loan truyền về Ðức Kitô. Và chúng ta phải ganh đua với các ngài về đức tin, đức cậy, đức ái, sự hăng say, sự sống, sự kiên nhẫn trong đau khổ, và kiên trì cho tới chết, để chúng ta có thể chia sẻ triều thiên vinh hiển của họ trên thiên đàng" (Luận về Ðức Tin Chính Thống).
(nguon: Fatima company)
 

langvuon

khoai nướng
#31
Ðề: Những ngày lễ Công Giáo tháng 12

Thứ Bảy 04/12 Thứ Bảy Đầu Tháng. Đền tạ Trái Tim Đức Mẹ, mis.imp
Thánh Gioan Đamátxênô, Lmts
Is 30: 19-21, 23-26 Tv 147: 1-2, 3-4, 5-6 Mt 9: 3510

Thánh Gioan ở Damascus
(676?-749)


Hầu như toàn thể cuộc đời của Thánh Gioan là sống trong tu viện St. Sabas, gần Giêrusalem, và dưới chế độ của Hồi Giáo. Theo các sử gia, khi Damascus rơi vào tay người Ả Rập, thì tổ tiên của Thánh Gioan là những người duy nhất còn trung thành với đức tin Kitô Giáo và họ được làm việc trong toà án để giúp vua Hồi Giáo áp dụng luật lệ Kitô Giáo đối với các Kitô Hữu. Sau khi được giáo dục về thần học và kinh điển, Thánh Gioan theo cha ngài giữ một chức vụ trong chính quyền của người Ả Rập. Vài năm sau, ngài từ chức và gia nhập tu viện St. Sabas.

Ngài nổi tiếng trong ba lãnh vực. Thứ nhất, về các văn bản của ngài chống với những người không muốn tôn kính ảnh tượng thánh (iconoclast). Thật ngược đời, chính hoàng đế Leo của người Kitô Giáo Ðông Phương đã cấm việc tôn kính này, và vì Thánh Gioan sống trong lãnh thổ của người Hồi Giáo nên không ai làm gì được. Thứ hai, ngài nổi tiếng về luận án, Luận Về Ðức Tin Chính Thống, một tổng hợp các văn bản của Giáo Phụ Hy Lạp (mà ngài là người sau cùng). Người ta nói quyển sách này làm nền tảng cho tư tưởng Ðông Phương cũng giống như cuốn Tổng Luận (Summa) của Thánh Aquinas làm nền tảng cho Tây Phương. Thứ ba, ngài là một thi sĩ nổi tiếng, là một trong hai đại thi hào của Giáo Hội Ðông Phương. Ngài rất sùng kính Ðức Mẹ và các bài giảng của ngài về Ðức Mẹ cũng rất nổi tiếng.

Lời Bàn

Thánh Gioan bảo vệ Giáo Hội về việc tôn kính ảnh tượng thánh và giải thích đức tin Kitô Giáo trong một vài sự tương tranh. Trên 30 năm ngài sống đời cầu nguyện cũng như sáng tác. Sự thánh thiện của ngài được tỏ lộ qua các bài giảng cũng như văn bản nhằm phục vụ Thiên Chúa.

Lời Trích

"Các thánh phải được tôn vinh như những người bạn của Ðức Kitô và là miêu duệ của Thiên Chúa, như Thánh Sử Gioan đã viết: 'Càng nhận được nhiều bao nhiêu, Ðức Kitô lại càng ban cho họ bấy nhiêu để họ trở nên con cái Thiên Chúa&' Chúng ta hãy thận trọng quan sát đời sống của các tông đồ, các vị tử đạo, các vị khổ tu và người công chính, họ là những người loan truyền về Ðức Kitô. Và chúng ta phải ganh đua với các ngài về đức tin, đức cậy, đức ái, sự hăng say, sự sống, sự kiên nhẫn trong đau khổ, và kiên trì cho tới chết, để chúng ta có thể chia sẻ triều thiên vinh hiển của họ trên thiên đàng" (Luận về Ðức Tin Chính Thống).
 

langvuon

khoai nướng
#32
Ðề: Những ngày lễ Công Giáo tháng 12

Chúa Nhật 05/12
Chúa Nhật thứ II Mùa Vọng. Thánh Vịnh Tuần II

Is 11: 1-10 Tv 72: 1-2, 7-8, 12-13, 17 Rm 15: 4-9 Mt 3: 1-12

Thứ Hai 06/12
Thứ Hai sau Chúa Nhật thứ II Mùa Vọng

Thánh Nicôla, Gm
Is 35: 1-10 Tv 85: 9-10, 11-12, 13-14 Lc 5: 17-26​

Thánh Nicholas
(c. 350?)


Việc thiếu những dữ kiện "xác thực" của lịch sử không ảnh hưởng đến sự nổi tiếng của các thánh, như trường hợp của Thánh Nicholas cho thấy. Cả hai giáo hội Ðông Phương và Tây Phương đều vinh danh ngài, có thể nói, sau Ðức Mẹ, ngài là vị thánh thường được các nghệ sĩ Kitô Giáo mô tả. Tuy nhiên, về phương diện lịch sử, chúng ta chỉ biết một dữ kiện, Thánh Nicholas là giám mục ở Myra vào thế kỷ thứ tư -- Myra là một thành phố nằm trong Lycia, một tỉnh của Tiểu Á.

Tuy nhiên, như nhiều vị thánh khác, chúng ta có thể biết được mối quan hệ giữa thánh nhân và Thiên Chúa qua sự ngưỡng mộ mà các Kitô Hữu dành cho ngài -- sự ngưỡng mộ được diễn tả qua các câu truyện đầy màu sắc và thường được kể đi kể lại trong nhiều thế kỷ.

Có lẽ câu truyện nổi tiếng nhất về Thánh Nicholas là lòng bác ái của ngài đối với một gia đình nghèo khổ mà ông bố không có của cải để cho ba cô con gái làm của hồi môn. Vì không muốn trông thấy họ phải lâm vào cảnh đĩ điếm, Thánh Nicholas đã bí mật ném ba gói vàng qua cửa sổ nhà ông này vào ba trường hợp khác nhau, để giúp các cô con gái ấy đi lấy chồng. Qua các thế kỷ, huyền thoại này trở thành thói quen tặng quà nhân ngày lễ kính thánh nhân. Trong thế giới nói tiếng Anh, Thánh Nicholas trở thành Santa Claus và người Việt thường gọi là ông già Noel. Ông già Noel ngày nay đã bị xã hội tục hóa quá nhiều khiến lu mờ đi ý nghĩa chính của câu truyện, đó là tấm gương quảng đại của vị giám mục thánh thiện này.

Lời Bàn

Cái nhìn có tính cách phê phán của lịch sử hiện đại giúp chúng ta nhận ra ý nghĩa sâu xa hơn của các huyền thoại về Thánh Nicholas. Có lẽ, bài học thiết thực nhất của ngài là lòng bác ái. Hãy nhìn đến thái độ của chúng ta đối với vật chất trong mùa Giáng Sinh, và hãy tìm ra các phương cách để chia sẻ của cải ấy cho những người có nhu cầu.

Lời Trích

"Ðể có thể nhận ra các nhu cầu phúc lợi thích hợp cho tín hữu tùy theo hoàn cảnh của mỗi người, vị giám mục phải cố gắng quen thuộc với nhu cầu của họ trong các hoàn cảnh xã hội mà họ sinh sống... Ngài phải bày tỏ sự lưu tâm đến tất cả mọi người, bất kể tuổi tác, tình trạng, hay quốc tịch, dù họ là người bản xứ, người xa lạ, hay người nước ngoài" (Sắc Lệnh về Văn Phòng Mục Vụ của các Giám Mục, 16).
 

langvuon

khoai nướng
#33
Ðề: Những ngày lễ Công Giáo tháng 12

Thứ Ba 07/12
Thứ Ba sau Chúa Nhật thứ II Mùa Vọng
Lễ nhớ Thánh Ambrose, Gmtsht
Is 40: 1-11 Tv 96: 1-2, 3, 10, 11-12, 13 Mt 18: 12-14

Thánh Ambrôsiô​

(340-397)​

Một trong các người viết tiểu sử về Thánh Ambrôsiô nói rằng: vào ngày Phán Xét Chung sẽ vẫn còn sự tách biệt giữa những người thích thánh nhân và những người cực kỳ ghét bỏ ngài. Thánh Ambrôsiô nổi tiếng là một người có những quyết định táo bạo ảnh hưởng đến đời sống của những người cùng thời.


Vào năm 33 tuổi, Thánh Ambrôsiô đã có tất cả mọi sự -- một sự nghiệp đầy hứa hẹn là luật sư, một vị thế quan trọng trong chính trường là tổng trấn Milan, ngoài ra ngài còn là người bạn và đồng chí với hoàng đế, cùng với một gia tài kếch sù.

Và rồi vị giám mục của Milan từ trần. Vào lúc ấy, khoảng năm 374, nhiều tà giáo muốn tiêu diệt Giáo Hội. Vị cố giám mục Milan từng hậu thuẫn cho lạc giáo Arian chống lại giáo huấn về thiên tính của Ðức Kitô. Vậy ai sẽ là người kế vị -- người Công Giáo hay người của phe Arian? Cả hai phe đụng độ nhau ở vương cung thánh đường và một cuộc bạo động xảy ra.

Duy trì trật tự công cộng là trách nhiệm của quan tổng trấn Ambrôsiô, nên ngài vội vã chạy đến nhà thờ và hùng hồn lên tiếng, không ủng hộ phe phái nào cả, nhưng ủng hộ sự hoà bình. Ngài xin dân chúng hãy bình tĩnh, kềm chế sự nóng nẩy và chọn lựa giám mục mà không cần phải xô xát.

Trong khi ngài đang nói, bỗng dưng có người hô to, "Bầu Ambrôsiô làm giám mục!" Thế là tất cả mọi người đều đồng thanh, "Ambrôsiô là giám mục!"

Các vị giám mục khác của tỉnh thì quá vui mừng khi được phủi tay trước vấn đề khó khăn này. Nhưng Ambrôsiô không dễ hy sinh một sự nghiệp đầy hứa hẹn để chấp nhận công việc của một giám mục đầy nguy hiểm -- một công việc ảnh hưởng đến tính mạng trong thời lạc giáo. Bởi thế Ambrôsiô bỏ trốn. Khi ngài cầu viện đến hoàng đế để thay đổi quyết định nói trên với lý do là ngài chưa rửa tội, vị hoàng đế lại tuyên bố rằng ông rất vui mừng khi chọn được quan tổng trấn thích hợp với chức giám mục. Ambrôsiô trốn tránh trong nhà của một nghị sĩ, nhưng ông này đã đem nộp Ambrôsiô khi ông biết quyết định của hoàng đế.

Không còn biết trốn vào đâu nữa, Ambrôsiô ra đầu hàng. Vì ngài bị ép buộc phải chấp nhận chức giám mục, nên sẽ không ai ngạc nhiên nếu ngài vẫn tiếp tục lối sống cũ, như trước khi được tấn phong. Tuy nhiên, ngay sau đó Ambrôsiô đã phân phát tài sản cho người nghèo và tự đặt mình dưới sự chỉ dẫn của Thánh Simplician để học thần học và Kinh Thánh.

Phe Arian tưởng rằng Ambrôsiô sẽ là giám mục "của họ" vì ngài từng là một viên chức của triều đình, và nhiều người trong chính quyền đều thuộc phe Arian. Nhưng Ambrôsiô đã dùng sở trường của một luật sư và tài hùng biện để chống lại phe Arian bất cứ nơi nào, dù ở nhà thờ, triều đình, thượng viện, hay ngay cả trong hoàng tộc. Tính ngoan cố của ngài khi không chấp nhận chức giám mục lúc đầu, nay lại trở thành vũ khí trong cuộc chiến chống lại lạc giáo và giúp ngài quyết tâm theo đuổi sự thánh thiện.

Khi người Goth xâm chiếm đế quốc và bắt nhiều người làm con tin, Ðức Giám Mục Ambrôsiô đã phải dùng chính tài sản của mình để chuộc. Ngài nói sự bác ái có giá trị nhất là chuộc kẻ tù đầy. Ngay cả các bình vàng của Giáo Hội, ngài cũng đem bán để lấy tiền chuộc. Ngài nói, "Cứu vớt các linh hồn cho Chúa thì tốt hơn là duy trì tài sản. Ðức Kitô đã sai các tông đồ đi rao giảng mà không có vàng bạc, và cũng không cần vàng bạc để thành lập Giáo Hội của Người. Giáo Hội làm chủ vàng bạc, không phải để tích trữ, nhưng để phân phối và giúp đỡ những người kém may mắn."

"Chắc chắn Chúa sẽ hỏi chúng ta: 'Tại sao con lại để quá nhiều người nghèo đói? Vì con có vàng bạc, con phải cấp dưỡng cho họ'& Có thể nào chúng ta trả lời rằng: 'Vì con không muốn để đền thờ của Chúa không được trang hoàng.' Nhưng những gì không mua được bởi vàng bạc thì cũng không có giá trị bởi vàng bạc. Phương cách tốt nhất để sử dụng vàng bạc của Ðấng Cứu Thế và hãy cứu vớt những người lâm cảnh hoạn nạn."

Ðức Giám Mục Ambrôsiô luôn luôn lưu tâm đến người nghèo hơn là quyền lực. Ngài thường khiển trách người giầu khi lãng quên người nghèo: "Thiên Chúa tạo nên vũ trụ trong một phương cách để tất cả những gì là của chung sẽ đem lại no ấm cho con người, và trái đất là sở hữu chung của tất cả mọi người. Tại sao bạn lại từ chối một người cũng có quyền đối với thiên nhiên như bạn? Của cải bạn cho người ăn xin không phải của chính bạn, nhưng đó là phần của người ấy mà bạn phải hoàn trả cho họ. Trái đất thuộc về tất cả mọi người. Bởi thế, bạn đang trả nợ mà lại nghĩ đang ban bố một ơn huệ."

Khi hoàng đế từ trần, Hoàng Hậu Justina, một người phe Arian, trở thành nhiếp chính cho đứa con trai bốn tuổi. Maximus, một cựu sĩ quan Rôma, biết rằng cái chết của hoàng đế sẽ làm suy yếu đế quốc nên dự định tấn công. Justina xin Ambrôsiô thương lượng với tên này. Mặc dù Justina là một kẻ thù, Ambrôsiô đã lên đường thi hành nhiệm vụ và đã thuyết phục được Maxima ngừng xâm lăng.

Thay vì biết ơn Ambrôsiô, Hoàng Hậu Justina lại yêu cầu Ðức Giám Mục Ambrôsiô trao lại vương cung thánh đường cho phe Arian. Thánh nhân trả lời rằng ngài không bao giờ nhường đền thờ của Thiên Chúa.

Dân chúng đứng về phe Ðức Giám Mục Ambrôsiô. Ngài thừa khả năng để thực hiện cuộc đảo chánh lật đổ Justina. Nhưng ngài thận trọng không dùng bất cứ lời nói hay hành động nào để khích động dân chúng.

Khi một số người Công Giáo bắt giữ một linh mục phe Arian và kết án tử hình, Ðức Giám Mục Ambrôsiô đã nhân danh hòa bình xin tha cho vị linh mục này và nói rằng: Thiên Chúa sẽ phải đau khổ khi thấy cảnh máu chảy thịt rơi. Ðức Ambrôsiô gửi các linh mục và phó tế của ngài đến giải thoát cho vị linh mục Arian này.

Sau đó Hoàng Hậu Justina thuyết phục con mình ban bố luật lệ để hợp pháp hóa lạc giáo Arian và cấm người Công Giáo không được chống đối người Arian. Không ai có thể đệ trình một thỉnh cầu chống với một tổ chức tôn giáo đang có thế lực.

Vào Chúa Nhật Lễ Lá, trong bài giảng, Ðức Giám Mục Ambrôsiô tuyên bố không nhường lại các nhà thờ. Cả giáo đoàn, vì lo sợ cho tính mạng, đã phòng thủ trong nhà thờ với vị chủ chăn là Ðức Giám Mục Ambrôsiô. Quân triều đình bao vây chung quanh ngăn chặn mọi đường tiếp tế, để dân chúng vì đói mà phải ra đầu hàng. Cho đến ngày Chúa Nhật Phục Sinh, tất cả mọi người vẫn kiên trì phòng thủ.

Khi chạm trán với lực lượng bao vây, Ðức Giám Mục Ambrôsiô nói, "Vũ khí của tôi chỉ là nước mắt. Tôi không muốn từ bỏ nơi đây, nhưng tôi không chống cự bằng võ lực."

Ðể trấn an dân chúng đang khiếp sợ, Ðức Giám Mục Ambrôsiô dạy họ hát thánh vịnh do chính ngài sáng tác. Ngài chia cộng đoàn làm hai bên để đối đáp. Ðây là lần đầu tiên việc hát đáp ca được ghi nhận trong lịch sử Giáo Hội.

Tiếng nhạc và lời kinh vượt ra ngoài bốn bức tường của thánh đường và làm rúng động tâm hồn các binh lính. Không bao lâu, chính họ cũng cất tiếng phụ họa. Sự vây hãm chấm dứt.

Vì biết quân triều đình đang tập trung vào việc chống đối người Công Giáo, Maximus một lần nữa lại quyết định tấn công Rôma. Justina và hoàng tộc thật kinh hãi. Không biết trông vào ai, sau cùng họ lại quay về với người mà họ từng tấn công và đe dọa. Họ xin Ðức Giám Mục Ambrôsiô đến gặp Maximus và ngăn chặn sự tấn công.

Trong một hành động tha thứ có thể nói lạ lùng, Ðức Giám Mục Ambrôsiô lại thi hành nhiệm vụ cho kẻ thù. Khi Maximus từ chối thoả hiệp, ngài vội vã trở về để chuẩn bị. Justina và hoàng tộc trốn sang Hy Lạp, trong khi Ðức Giám Mục Ambrôsiô ở lại chống đỡ. May mắn thay, vị hoàng đế đông phương là Theodosius đã can thiệp và đánh bại Maximus. Tuy nhiên, sau đó Theodosius đã chiếm quyền kiểm soát toàn thể đế quốc Rôma. Theodosius là người Công Giáo và sau này trở thành người bạn chí thiết của Ðức Giám Mục Ambrôsiô.

Ðức Giám Mục Ambrôsiô từ trần năm 397, khoảng 57 tuổi. Lễ kính được đặt vào ngày 7 tháng Mười Hai, là ngày ngài "bị" tấn phong giám mục.
(nguồn: Fatima company)
 

langvuon

khoai nướng
#34
Ðề: Những ngày lễ Công Giáo tháng 12

Thứ Tư 08/12
Thứ Tư sau Chúa Nhật thứ II Mùa Vọng
LỄ ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI, Lễ Trọng
Is 40: 25-31 Tv 103: 1-2, 3-4, 8, 10 Mt 11: 28-30

Lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội


Vào thế kỷ thứ bảy, trong Giáo Hội Ðông Phương có một ngày lễ được gọi là Sự Thụ Thai Ðức Maria. Lễ này được cử hành trong Giáo Hội Tây Phương vào thế kỷ thứ tám. Ðến thế kỷ 11, ngày lễ này có tên như hiện nay, Vô Nhiễm Nguyên Tội. Và vào thế kỷ thứ 18, lễ này trở thành ngày lễ chính thức của Giáo Hội hoàn vũ.

Năm 1854, Ðức Giáo Hoàng Piô IX công bố điều bất khả ngộ: "Ðức Trinh Nữ Maria rất thánh, trong giây phút đầu tiên khi thụ thai trong lòng mẹ, bởi một ơn huệ phi thường và đặc biệt do Thiên Chúa toàn năng ban cho, vì công nghiêäp của Ðức Giêsu Kitô, Ðấng cứu chuộc nhân loại, nên ngài được gìn giữ khỏi mọi tì ố của tội nguyên tổ."

Phải mất một thời gian khá lâu mới hình thành tín điều này. Trong khi nhiều Giáo Phụ và Tiến Sĩ Hội Thánh coi Ðức Maria như vị thánh cao trọng và thánh thiện nhất trong các thánh, nhưng họ vẫn ngại ngùng để cho rằng Ðức Maria là một người không có tội -- hoặc từ lúc thụ thai hoặc trong cuộc sống. Ðây là một tín điều của Giáo Hội phát sinh từ lòng đạo đức của tín hữu hơn là sự hiểu biết của các thần học gia sáng giá. Ngay cả các vị lão luyện hiểu biết về Ðức Maria như Thánh Bernard và Tôma Aquinas cũng không thấy được lý do về phương diện thần học của tín điều này.

Hai tu sĩ dòng Phanxicô là William ở Ware và John Duns Scotus, đã giúp chúng ta hiểu biết hơn về ý nghĩa thần học. Họ cho rằng sự Vô Nhiễm Nguyên Tội của Ðức Maria nâng cao giá trị công trình cứu chuộc của Ðức Giêsu. Các phần tử khác của gia đình nhân loại chỉ được sạch tội nguyên tổ sau khi sinh. Với Ðức Maria, tội nguyên tổ đã bị ngăn chặn ngay từ lúc ban đầu nhờ quyền lực mạnh mẽ của công trình cứu chuộc của Ðức Giêsu.

Trong Phúc Âm theo Thánh Luca 1:28, thiên thần Gabrien, sứ giả của Thiên Chúa, đã xưng tụng Ðức Maria là "đầy ơn phúc" (hay "hết sức sủng ái"). Trong khung cảnh đó, lời chào này có nghĩa Ðức Maria được mọi sự trợ giúp đặc biệt thánh thiêng để thi hành nhiệm vụ được giao phó. Tuy nhiên, Giáo Hội chỉ có thể lớn lên trong sự hiểu biết nhờ sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần. Chính Thần Khí đã hướng dẫn Giáo Hội hiểu biết rằng Ðức Maria phải là một công trình tuyệt hảo của Thiên Chúa, chỉ sau công trình Nhập Thể. Nói khác đi, sự liên hệ mật thiết giữa Ðức Maria và sự Nhập Thể đòi hỏi sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa trong toàn thể cuộc đời của Ðức Maria. Lòng đạo đức giúp cộng đồng dân Chúa tin rằng Ðức Maria là người đầy ơn phúc, và sạch mọi tội lỗi từ lúc thụ thai trong lòng mẹ. Hơn thế nữa, đặc ân cao trọng này của Ðức Maria là cao điểm của tất cả những gì Thiên Chúa đã thể hiện nơi Ðức Giêsu. Hiểu một cách đúng đắn, sự thánh thiện không thể so sánh của Ðức Maria cho thấy sự thiện hảo không thêå so sánh của Thiên Chúa.

"[Ðức Maria] đã cho thế giới Sự Sống để canh tân tất cả mọi sự, và ngài được Thiên Chúa phong phú hóa với mọi ơn sủng thích hợp cho vai trò đặc biệt đó.

"Bởi thế, không ngạc nhiên khi các Giáo Phụ thường coi người mẹ Thiên Chúa hoàn toàn thánh thiện và không một tì ố tội lỗi, được Chúa Thánh Thần khuôn đúc trong một thực thể mới để trở nên một tạo vật mới. Ngay từ lúc thụ thai đã được tô điểm bằng sự thánh thiện cực kỳ độc đáo và diễm lệ, Ðức Trinh Nữ của Nagiarét được sứ thần, theo mệnh lệnh của Thiên Chúa, chào mừng là 'đầy ơn phúc'. Với vị sứ giả ấy, ngài đã trả lời: 'Này tôi là tôi tớ của Thiên Chúa, hãy thể hiện nơi tôi những gì ngài vừa nói' (Luca 1:38)" (Hiến Chương về Giáo Hội, 56).
 

langvuon

khoai nướng
#35
Ðề: Những ngày lễ Công Giáo tháng 12

Thứ Năm 09/12
Thứ Năm sau Chúa Nhật thứ II Mùa Vọng
Thánh Juan Diego
Is 41: 13-20 Tv 145: 1, 9, 10-11, 12-13 Mt 11: 11-15

Thánh Juan Diego

Thánh Juan Diego là người thổ dân xứ Mể Tây Cơ sinh sống bằng nghề săn bắn, làm rẩy và lao công. Mổi buổi sáng ngài thức dậy thật sớm, đi bộ khỏang 15 dặm tham dự thánh lễ tại thành phố Mexico.

Sáng ngày 9 tháng 12 khi đi ngang qua đồi Tepeyac Hill, thì được nghe một điệu nhạc thật du dương và nhìn thấy một đám mây thật rạng rỡ bao quanh một chiếc cầu vòng ngũ sắc. Một tiếng đàn bà dịu dàng gọi từ trên đỉnh đồi, Juan Diego nhìn lên thì thấy một bà trẻ đẹp xinh xắn trong y phục của một bà hoàng Aztee. Bà ấy xưng là Trinh nữ Maria và muốn Juan trình bày với Ðức Giám mục là Bà muốn xây một thánh đường trên ngọn đồi này. Bà nói: “Ta muốn có một nhà thờ trên ngọn đồi này để từ nơi đó Ta ban phát tình yêu thương, lòng thương xót, giúp đỡ và bảo bọc như một người Mẹ nhân lành…để lắng nghe lời than vãn khóc than mà thoa dịu những nỗi ê chề đau đớn của con cái.”

Ðức Giám mục tỏ vẽ nghi ngờ nên khiến Juan đưa ra bằng chứng về Bà mà Juan đã nhìn thấy. Trước khi Juan trở lại để gặp Ðức Bà thì được tin chú ngài đang đau nặng sắp chết. Trong cơn hỏang hốt đi tìm linh mục xức dầu, ngài quên mất cuộc hẹn với Ðức Mẹ. Nhưng Ðức Mẹ lại đi gặp Juan giữa dường và báo cho ngài biết là chú ngài đã lành bệnh. Ðức Mẹ bảo Juan hãy leo lên đỉnh đồi, chổ mà Ðức Mẹ đã hiện ra. Juan Diego kinh ngạc sững sốt nhìn thấy những bông hoa rực rỡ giữa đám đất lạnh lẻo và cằn cỗi. Ngài liền hái một số bông hoa, dấu trong áo choàng của mình và lập tức đem đến cho Ðức Giám mục.

Ngài kể lại sự việc đã xẩy ra và mở chiếc áo choàng ra, những bông hoa rơi xuống đất, đó là những hoa hoa hồng xứ Castilian (ở Tây Ban Nha, hoa đó không có trong xứ Mexico). Nhưng Ðức Giám mục chỉ sững sốt nhìn hình ảnh Ðức Bà rạng rỡ in trên chiếc áo choàng của Juan Diego.

Thời gian sau đó, một ngôi thánh đường được xây cất trên đỉnh đồi chổ Ðức Mẹ đã hiện ra và từ đó có cả hàng vạn người đã trở lại theo Ðạo Công giáo.

Và Ðức Mẹ Guadalupe được tuyên xưng là bổn mạng của Châu Mỹ. Thánh Juan Diego qua đời ngày 30 tháng 5 năm 1548, hưởng thọ 74 tuổi. Ngày 31 tháng 7 năm 2002, Ðức Gioan Phao lồ II đã nâng ngài lên hàng hiển thánh để giáo hữu noi gương trung tín và khiêm nhường của ngài.

Phó Tế Huỳnh Mai Trác
 

langvuon

khoai nướng
#36
Ðề: Những ngày lễ Công Giáo tháng 12

Thứ Sáu 10/12
Thứ Sáu sau Chúa Nhật thứ II Mùa Vọng
Is 1: 1-2, 3, 4, 6 Tv 1: 1-2, 3, 4, 6 Mt 11: 11-15

Thứ Bảy 11/12
Thứ Bảy sau Chúa Nhật thứ II Mùa Vọng
Thánh Damasus I, Giáo Hoàng
Hc 48: 1-4, 9-11 Tv 80: 2-3, 15-16, 18-19 Mt 17: 10-13

Thánh Giáo Hoàng Damasus I
(305? - 384)

Theo chứng từ của người thư ký là Thánh Giêrôme, Thánh Damasus là "một người không ai sánh bằng, rất hiểu biết Phúc Âm, một tiến sĩ trinh trắng của một Giáo Hội trinh trắng, rất yêu quý sự khiết tịnh."

Thánh Damasus có khi nào được nghe những lời tán dương đó. Những tranh giành nội bộ có tính cách chính trị, các tà thuyết, các tương giao căng thẳng với chính các giám mục của ngài và của Giáo Hội Ðông Phương đã làm lu mờ sự bình an trong triều đại giáo hoàng của ngài.

Là con của một tư tế Rôma, có lẽ thuộc gốc Tây Ban Nha, Damasus khởi sự là một phó tế trong nhà thờ của cha mình, sau đó ngài là tư tế (linh mục) của một đền thờ mà sau này là vương cung thánh đường San Lorenzo ở Rôma. Ngài phục vụ Ðức Giáo Hoàng Liberius (352-366) và đi theo đức giáo hoàng khi bị lưu đầy.

Khi Ðức Liberius từ trần, Damasus được bầu làm Giám Mục Rôma; nhưng một thiểu số khác lại chọn và tấn phong một phó tế khác là Ursinus làm giáo hoàng. Cuộc tranh luận giữa Damasus và giáo hoàng đối lập gây nên nhiều xung đột trong hai nhà thờ lớn, gây tiếng xấu cho các giám mục Ý. Trong một thượng hội đồng do Damasus triệu tập nhân ngày sinh nhật của ngài, Ðức Damasus yêu cầu các giám mục tán thành các hành động của ngài. Nhưng câu trả lời của các giám mục thật cộc lốc: "Chúng tôi quy tụ để mừng sinh nhật, chứ không để kết án một người chưa bao giờ nghe biết." Khoảng năm 378, những người ủng hộ vị giáo hoàng đối lập còn tìm cách đưa Ðức Damasus ra toà về một tội phạm -- có lẽ tội dâm dục. Ngài đã phải thanh minh trước toà dân sự cũng như trước một thượng hội đồng của Giáo Hội.

Khi là giáo hoàng, ngài có lối sống thật đơn giản trái ngược với các giáo sĩ ở Rôma, và ngài rất hăng say chống lại tà thuyết Arian và các tà thuyết khác. Một sự hiểu lầm trong văn từ về Ba Ngôi Thiên Chúa đã đe dọa mối giao hảo thân thiện với Giáo Hội Ðông Phương, và Ðức Damasus là người ôn hoà đã dàn xếp cách tốt đẹp.

Chính trong thời giáo hoàng của ngài (380) mà Kitô Giáo được tuyên bố là tôn giáo chính thức của Rôma, và tiếng Latinh trở nên ngôn ngữ chính thức trong phụng vụ nhờ sự cải cách của đức giáo hoàng. Cũng nhờ ngài khuyến khích Thánh Giêrôme học hỏi kinh thánh mà bộ Vulgate được chào đời, đó là bộ Kinh Thánh bằng tiếng Latinh mà Công Ðồng Triđentinô (11 thế kỷ sau) tuyên bố là "có giá trị để đọc giữa công chúng, được dùng để tranh luận, và để rao giảng."

Lời Bàn

Lịch sử của triều đại giáo hoàng và lịch sử Giáo Hội đã bị pha trộn với tiểu sử của Ðức Damasus. Trong một giai đoạn then chốt và nhiều khó khăn của Giáo Hội, ngài đã xuất hiện như một người bảo vệ đức tin đầy nhiệt huyết, biết khi nào phải tiến và khi nào phải thủ. Thánh Damasus giúp chúng ta ý thức hai đức tính của một người lãnh đạo xứng đáng: luôn nhận ra sự thôi thúc của Thần Khí và phục vụ. Cuộc chiến đấu của ngài nhắc cho chúng ta biết rằng Ðức Kitô không bao giờ hứa che chở Ðá Tảng của Người khỏi cơn phong ba, bão táp hay những người theo Người không gặp các khó khăn. Người chỉ đảm bảo sự chiến thắng sau cùng.

Lời Trích

"Ngài là đấng đi trên biển đã làm câm nín các ngọn sóng ác liệt, là đấng ban sự sống cho những hạt mầm tàn tạ của thế gian; Ngài là đấng tháo gỡ xiềng xích tử thần, và đã đưa về cho Martha người anh của cô sau ba ngày trong mộ tối. Tôi tin rằng, Ngài sẽ đưa Damasus chỗi dậy từ tro bụi" (văn mộ chí mà Ðức Damasus đã viết cho chính ngài).
 

langvuon

khoai nướng
#37
Ðề: Những ngày lễ Công Giáo tháng 12

Chúa Nhật 12/12
Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng. Thánh Vịnh Tuần III

Is 35: 1-6a, 10 146: 6-7, 8-9a, 9b-10 Gc 5: 7-10 Mt 11: 2-11
Kính thánh tử đạo Thánh Simon Phan Khắc Hòa, Y sĩ

Thánh Simon PHAN ĐẮC HÒA​

Y sĩ - (1774 - 1840)​

Nhờ đấng yêu mến tôi

“Ai có thể làm chúng tôi xa lìa được lòng mến Chúa Kitô ? Phải chăng là gian truân, cùng khổ, đói rách, bắt bớ, gươm giáo” (Rm.8,35).

Cái khốn khổ mà Simon Hòa phải chịu kể từ khi bị bắt vì đức tin cũng tương tự như thế: Hơn 20 lần bị tra khảo rất dữ dội. Lúc thì bằng đòn vọt, khi thì bằng kìm lạnh, lúc khác thì bằng kẹp nung lửa. khiến da thịt ông bị thối rữa vì các vết thương đầy mủ máu. Rồi trách nhiệm tình thương đối với gia đình: người vợ và 12 đứa con, có đứa mới sanh được vài tháng, chưa được diễm phúc thấy mặt cha một lần.

Thế nhưng ngay trong trường hợp này, chân lý của các vị tử đạo vẫn luôn luôn đúng: Đối với các ngài, đau thương không phải là dấu chỉ của thất bại. Đau thương cũng không phải là mục đích, nhưng đau thương chính là thử thách các chứng nhân phải vượt qua, để có thể đạt được chân phúc vĩnh cửu. Và thái độ của Simon Hòa cũng như thái độ chung của các vị tử đạo vẫn là: “Trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng yêu mến chúng ta” (Rm.8, 37).

Gương mẫu người tân tòng

Phan Đắc Hòa sinh trong một gia đình ngoại giáo tại làng Mai Vĩnh, xã Mông thôn, tỉnh Thừa Thiên năm 1774. Thuở bé, cậu tên là Thu. Cha mất sớm, mẹ đưa chị em Hòa đến tá túc và làm công ở làng Lưỡng Kim, sau đó đến giúp một gia đình Công Giáo ở làng Nhu Lý, tỉnh Quảng Trị.

Sống với người Công Giáo, nhìn thấy những gương sáng và được nghe nói về những điều cao đẹp của đạo mới này, cậu Hòa đem lòng cảm mến và xin phép mẹ cho mình theo học lớp giáo lý và gia nhập đạo. Khi ấy cậu mới chỉ là một thiếu niên 12 tuổi, cậu đã chọn thánh Simon làm bổn mạng. Yêu mến Chúa Kitô, cậu bé không dừng ở đó, mà còn muốn theo sát, phục vụ Chúa Kitô trong đời tu trì. Cậu đã vào chủng viện một thời gian, nhưng qua các cha bề trên, Simon Hòa nhận ra ý Chúa muốn cậu sống và làm chứng tá về Ngài ngay giữa lòng đời.

Tuy không đạt được ước mơ, Simon Hòa vẫn thường xuyên liên lạc với chủng viện và các cha Bề trên. Sau khi lập gia đình và trở thành cha của 12 người con, Simon Hòa cố gắng chu toàn trách nhiệm nuôi dưỡng và giáo dục con cái, xứng đáng là ngày gương sáng tiêu biểu cho mọi gia đình trong làng. Sống đời giáo dân, ông Hòa hành nghề y sĩ: “Lương y như từ mẫu”. Nhiều người được ông chữa lành bệnh, nên dân chúng đồn đãi với nhau đến với ông rất đông. Nhờ đó ông có nhiều cơ hội giúp đỡ người nghèo khó. Nếu dư dả chút ít, ông liền đem đóng góp vào công việc từ thiện, xây cất thánh đường.

Với đời sống đạo đức, ông lang y Hòa được đề cử làm Trùm họ. Trước mặt mọi người, ông đã thực thi chức năng một cách tốt đẹp: Ai ăn ở bất xứng, biếng trễ, ông tìm cách sửa chữa, hoặc răn đe dỗ dành, hoặc giải thích khuyên can. Ai cờ bạc rượu chè, ông nghiêm khắc sửa dạy. Thế nhưng ai cũng yêu mến chứ không oán ghét gì ông, bởi họ biết ông làm thế vì thương yêu họ và vì trách nhiệm, chứ không phải vì tư lợi. Ngoài ra, ông Simon Hòa còn sẵn sàng bênh vực, giúp đỡ người già nua tuổi tác, yếu đuối, các cô nhi quả phụ. Ông thấy thấm thía ý nghĩa của phúc thật tám mối, nhận ra hình ảnh Chúa Kitô nơi người khác, nhất là người nghèo khó. Có lần ông đích thân cúi xuống vực một người nằm kiệt sức bên đường, vác lên vai, đưa đến trạm canh, rồi cho người đem cơm nước để nuôi kẻ bất hạnh.

Dư thừa can đảm

Khi vua Minh mạng ra chiếu chỉ cấm đạo, Ông Trùm lang Hòa có dịp bày tỏ lòng can đảm của mình: ông sẵn sàng cho các linh mục ngoại quốc ẩn náu trong nhà, mặc dù biết rằng việc chứa chấp này đe dọa đến tính mạng của mình, cũng như của gia đình. Đức cha Cuénot Thể cũng trọ một thời gian tại nhà ông. Ông nhiệt thành lo liệu sắp xếp cho các linh mục có nơi trú ẩn. Nếu nhà mình không ổn, ông gởi các nhà ở nơi tương đối bình an hơn. Tối ngày 13.4.1840, khi đang trên thuyền Đức cha De la Motte Y đến làng Hòa Ninh, thuyền ông bị các quan phát hiện đuổi theo. Quân lính bắt ông và Đức cha Y đưa về huyện Dương Xuân, rồi giải về Quảng Trị giam hai tháng, và cuối cùng điệu về Huế.

Suốt thời gian bị giam, lưoưng y Hòa không những đã giúp đỡ anh em bạn tù bằng việc bốc thuốc chữa bệnh, ông còn khuyến khích họ trung thành với Chúa đến cùng. Cũng chịu khổ hình như mọi tù nhân, có khi còn hơn nữa, nhưng ông Simon vẫn kiên vững niềm tin. Các lần đòn đánh với vô số vết thương không làm ông nản chí, trái lại, ông còn lấy làm vui thỏa vì được hiệp thông với Đức Kitô chịu đóng đinh.

Khổ hình và vinh phúc

Ông Simon Hòa bị tra khảo đến 20 lần, có lẽ vì các quan tưởng dùng bạo lực, ông sẽ phải cung khai tung tích các vị thừa sai, nhưng “dã tràng xe cát biển đông”. Họ đã không đạt được ý nguyện, lại còn phải nghe ông thuyết giảng về chân lý đạo. Thế là họ trả đũa bằng đánh đập, bằng kìm kẹp và tra tấn dã man. cho tới khi người thày thuốc từ bi gục ngã không thể gượng dậy nổi. Nhưng niềm tin của lương y sĩ Hòa không thể ngã gục. Ông can đảm chịu mọi hình khổ đớn đau. Hơn nữa, ông quyết tâm hiến dâng mạng sống mình để làm chứng về đạo, dù phải hy sinh những điều thân thương qúi báu nhất đời. Khi các con đến thăm, ông khuyên nhủ:

“Cha yêu thương các con và hắng chăm sóc các con. Nhưng cha phải yêu Chúa nhiều hơn, các con hãy vui lòng vâng ý Chúa, đừng buồn làm chi. Các con ở với mẹ, thương yeu nhau, và chăm sóc việc nhà. Từ đây cha không thể lo cho các con được nữa. Chúa muốn cha chịu khổ, cha xin vâng trọn”.

Quả thật nỗi lòng y sĩ Simon Hòa lúc đó:

“Yêu kính Chúa, nặng tình nhà,
Trăm cay nghìn đắng, vẫn cam một lòng”.

Năm 1840, vua Minh Mạng châu phê án xử trảm quyết, bêu đầu ba ngày. Khi điệu ông Hòa đi xử, các quan còn cố bắt ông quá khóa, dụ dỗ ông bỏ đạo, hay ít là cầm lấy ảnh quẳng đi để ông được tha, nhưng ông vẫn một lòng kiên quyết tuyên xưng niềm tin của mình.

Vị lương y lang Nhu Lý đã vượt qua thử thách cuối cùng. Ông đã toàn thắng trong niềm tín thác vào Thiên Chúa ngày 10.12.1840 tại Cổng Chém, gần chợ An Hòa.

Đức Giáo Hoàng Lêo XIII đã suy tôn y sĩ Simon Phan Đắc Hòa lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
 

langvuon

khoai nướng
#38
Ðề: Những ngày lễ Công Giáo tháng 12

Thứ Hai 13/12
Thứ Hai sau Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng
Lễ nhớ Thánh Lucia, Đttđ
Ds 24: 2-7, 15-17 Tv 25: 4-5, 6-7, 8-9 Mt 21: 23-27

THÁNH LU-XI-A,trinh nữ, tử đạo
( St. Lucy)

Một vị thánh đã được Chúa làm phép lạ để tỏ rõ uy quyền của Chúa và để chỉ cho mọi người thấy vị thánh này đã được Chúa tuyển chọn ngay trong những trạng huống khó khăn nhất . Vị thánh này tên là Lucia.

LUCIA, NGƯỜI LÀ AI ?

Thánh nữ Lucia mồ côi cha ngay từ lúc còn nhỏ tuổi. Người sinh ra tại Syracusas nước ý. Ngay từ nhỏ, thánh nữ Lucia đã quyết dành riêng cho Chúa, hiến toàn thân mình cho Giavê Thiên Chúa làm như của lễ toàn thiêu dâng lên Ngài. Tuy nhiên, con đường của thánh nữ có chỗ quẹo, chỗ ngoằn ngoèo. Mẹ thánh nữ đã quyết tâm ép buộc Người lập gia đình. Thiên Chúa có chương trình của Ngài. Nhờ lời cầu nguyện của Lucia, Chúa đã nhậm lời thánh nữ cho mẹ Người khỏi lập tức cơn bệnh loạn huyết hiểm nghèo, bà đã mắc phải từ lâu. Được Chúa yêu thương, làm phép lạ và tỏ ra cho thánh nữ biết, Ngài tuyển chọn thánh nữ. Nên sau biến cố Chúa tỏ mình, chữa lành, thánh nữ đã từ khước cuộc hôn nhân này, bán tất cả gia tài Người có để làm của hồi môn, rồi phân phát cho kẻ nghèo khó như lời Chúa truyền cho chàng thanh niên giầu có. Vì bị từ chối kết hôn, chàng trai đáng lẽ là chồng của Lucia đã đang tâm tố cáo với Hoàng đế Lucia có đạo, thánh nữ đã bị bắt và giải tới trước mặt quan Paschase. Quan Paschase đã dùng hết lời lẽ dụ dỗ thánh nữ và dùng đủ mọi cực hình để bắt thánh nữ dâng hương tế thần nhưng quan hoàn toàn thất vọng vì sự quả cảm và lòng tin sắt đá của thánh nữ đối với Chúa. Quan cho dẫn thánh nữ tới nơi tội lỗi nhất hầu hủy hoại sự trinh tiết của thánh nữ.Nhưng Chúa đã gìn giữ Người, cho thân xác Người trở nên nặng nề như núi đá khiến không ai có thể kéo nổi. Chúa lại một lần nữa gìn giữ thân xác trinh nữ vì rằng khi quan Paschase quá nóng giận đã cho quân lính tẩm dầu vào thân xác trinh nữ hầu hủy hoại thân xác của người, Chúa đã gìn giữ thân xác Người vẹn toàn giữa lửa hồng rực rỡ. Chúa đã dọn chỗ cho trinh nữ Lucia và cho Người được phúc tử đạo vào năm 304 dưới thời bắt đạo của Điôclêtianô. Thánh nữ đã tiên báo Giáo Hội sẽ được hưởng bình an, thơ thới. Xác thánh nữ được chôn cất ngay trên quê hương của Người.

LỜI CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, hôm nay chúng con mừng kỷ niệm ngày thánh nữ Lucia đồng trinh, tử đạo, vinh hiển bước vào trời. Xin Chúa nhận lời người cầu thay nguyện giúp mà khơi lửa yêu mến trong lòng chúng con để mai sau chúng con được chiêm ngưỡng Chúa vô cùng vinh hiển( Lời nguyện ca nhập lễ, lễ thánh Lucia, trinh nữ, tử đạo).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
 

langvuon

khoai nướng
#39
Ðề: Những ngày lễ Công Giáo tháng 12

Thứ Ba 14/12
Thứ Ba sau Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng
Lễ nhớ Thánh Gioan Thánh Giá, Lmts
Xp 3: 1-2, 9-13 Tv 34: 2-3, 6-8, 17-18, 19, 23 Mt 21: 28-32

THÁNH GIOAN THÁNH GIÁ
Linh mục, tiến sĩ Hội Thánh

(St. John of The Cross)

Mỗi thánh đều đã sống cuộc đời họa lại hình ảnh Đức Kitô, càng giống Chúa bao nhiêu, thánh nhân đó càng làm nổi bật chân tính của Thầy Chí Thánh Giêsu. Thánh Gioan Thánh Giá đã sống trọn lành đến nỗi các nhân đức của Người đã trở nên anh hùng.


MỘT VỊ THÁNH CẢI TỔ DÒNG CARMÊLÔ

Thánh nhân sinh tại nước Tây Ban Nha miền Fontibéros vào năm 1542 trong một gia đình nghèo. Chính vì thế, Ngài đã trải qua tuổi niên thiếu lao đao, vất vả vì thánh nhân phải làm lụng, lao động cực nhọc. Năm 1563, thánh nhân tận hiến cho Chúa trong dòng kín Carmêlô. Thiên Chúa đã dùng Ngài vào công việc mở mang, cải tổ dòng carmêlô. Vì thế trước ngày lãnh sứ vụ linh mục vào năm 1567, Chúa đã xếp đặt cho Ngài gặp gỡ thánh Têrêsa cả, một cuộc gặp gỡ thánh, cuộc gặp gỡ kỳ diệu, quyết định cả hướng đi cho cuộc đời mục vụ của Ngài sau này. Thánh Gioan Thánh Giá đã cộng tác với thánh Têrêsa cả trong công cuộc cải cách dòng Carmêlô, đưa dòng về tuân giữ những qui chế đầu tiên của vị sáng lập dòng Carmêlô. Ngài đã cùng thánh nữ Têrêsa đưa dòng Carmêlô tới chỗ hoàn thiện mỗi ngày một hơn cho tới khi thánh nữ Têrêsa cả qua đời vào năm 1582. Thánh Gioan Thánh Giá đã cùng hai người bạn cùng lý tưởng tìm đến và sống trong túp lều tồi tàn, không ra gì tại Duruelo nước Tây Ban Nha. Mọi người trong nhà dòng đều chống đối cuộc cải cách của các Ngài. Thánh nhân bị giam tại một căn phòng tại Tolède vào năm 1577, chỉ chín tháng sau đó, thánh nhân đã trốn thoát khỏi nơi Ngài bị giam cầm. Thời gian này với ơn Chúa, với sự tác động của Chúa Thánh Thần, thánh nhân đã sáng tác nhiều bài thơ thần bí rất có giá trị. Tuy nhiên, Chúa luôn có con đường của Ngài, ý của Ngài khác với sự suy nghĩ của con người.Cuộc cải cách của thánh nhân và các bạn được chấp thuận, thánh Gioan thánh giá được trao cho nhiều chức vụ quan trọng trong dòng. Cuộc đời của Ngài tràn lửa tình yêu, soi chiếu cho dòng Carmêlô. Ngài đã sống tình yêu và khích lệ mọi tu sĩ trong dòng hãy sống tình yêu như Chúa đã sống. Ngài hưởng thọ 49 tuổi sau một cơn bệnh trầm trọng đã kéo Ngài về với Chúa vào năm 1591. Năm 1926, Đức Thánh Cha Piô XI đã nâng Ngài lên với danh hiệu”tiến sĩ Hội Thánh” do các tư tưởng sâu sắc và nền linh đạo quí giá Ngài để lại cho dòng Carmêlô và Giáo Hội.

LỜI CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Gioan linh mục lòng nhiệt thành yêu mến thánh giá và hoàn toàn từ bỏ chính mình. Xin cho chúng con hằng biết noi gương sáng của người để mai sau được chiêm ngưỡng Thánh Nhan vinh hiển( Lời nguyện nhập lễ thánh Gioan thánh giá, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh ).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
 

langvuon

khoai nướng
#40
Ðề: Những ngày lễ Công Giáo tháng 12

Thứ Tư 15/12
Thứ Tư sau Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng
Is 45: 6-8, 18, 21-25 Tv 85: 9-10, 11-12, 13-14 Lc 7: 18-23

Thứ Năm 16/12
Thứ Năm sau Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng
Is 54: 1-10; Tv 30: 2, 4, 5-6, 11-12, 13 Lc 7: 24-30

Từ ngày 17 đến ngày 24 là những ngày phụng vụ ưu tiên, không được cử hành lễ nhớ nào.

Thứ Sáu 17/12
Thứ Sáu sau Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng
St 49: 2, 8-10 Tv 72: 3-4, 7-8, 17 Mt 1: 1-17

Thứ Bảy 18/12
Thứ Bảy sau Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng
Gr 23: 5-8 Tv 72: 1, 12-13, 18-19 Mt 1: 18-24
Kính thánh tử đạo Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Phêrô Trương Văn Đường, Phêrô Vũ Văn Truật, Thày giảng

Thánh Phaolô NGUYỄN VĂN MỸ
Thày giảng - (1798 – 1838)

Là người lớn tuổi nhất, thày Phaolô Mỹ như người anh cả, và là chỗ dựa cho hai thày giảng cùng bị giam chung. Trong một lá thư gửi cho thừa sai Marette, thày Đường viết : "… Từ ngày được diễm phúc chịu khó vì đức tin, thày Mỹ thay chúng con vẫn viết thư cho cha. Vì chúng con coi thày như thay mặt cha ở giữa chúng con…"

Phaolô Nguyễn Văn Mỹ chào đời năm 1798 ở làng Kẻ Non, còn gọi là Sơn Nga, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Tên thật của cậu là Nguyễn Văn Hữu. Năm 13 tuổi, được phép cha mẹ, cậu Mỹ theo giúp việc Đức cha Giacôbê Longer Gia rồi sau giúp cha Luật xứ Kẻ Đầm bốn năm. Đến năm 19 tuổi, cậu theo học tại chủng viện Kẻ Vĩnh (Vĩnh Trị).

Khi làm thày giảng thực thụ, thày Mỹ được gửi đến giúp thừa sai Marette. Ít lâu sau, Đức cha Harvard Du giám quản giáo phận Tây Đàng Ngoài, đã chọn thày phụ giúp linh mục Cornay Tân, xứ Bầu Nọ, tỉnh Sơn Tây. Nhiều kinh nghiệm và khả năng, thày Mỹ đã hỗ trợ đắc lực cho vị thừa sai trẻ tuổi nhiệt thành, nhưng thường đau ốm nặng nề này. thày Mỹ luôn hoàn thành công tác mục vụ một cách chu đáo: Từ giảng lý tân tòng và trẻ em, đến khuyên bảo tội nhân hối cải. Khi tình hình cấm đạo lên cao độ, thày là vị tông đồ nhiệt thành và hữu hiệu, đi thăm từng gia đình để khích lệ các tín hữu sống đức tin, và còn hơn thế, được nhiều người ngoại giáo về đón nhận niềm tin Kitô giáo.

Thánh Phêrô TRƯƠNG VĂN ĐƯỜNG
Thày giảng - (1808 – 1838)

"Nhất định chúng tôi không đạp lên ảnh chuộc tội, vì như vậy là chọn cái chết đời đời cả linh hồn lẫn xác".

Lời nói trên cho ta thấy tâm tình của thánh Phêrô Đường, vị thày giảng đã hơn 20 năm dâng mình cho Chúa, để tìm kiếm hạnh phúc đích thực cho chính mình và ta nhân.

Sinh năm 1808 ở làng Kẻ Sở, xã Ninh Phú, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Gia đình Phêrô Đường tuy nghèo nhưng nổi tiếng thánh thiện. Được cậu là linh mục Trương Văn Thi phụ trách xứ Sông Chảy đỡ đầu, nên ngay khi chú Đường mới 9 tuổi, cha Phương xứ Yên Tập đã nhận khai tâm cho chú vào đời sống tu trì. 15 tuổi, anh Phêrô Đường đã được gủi đến giúp xứ Bầu Nọ dưới quyền thừa sai Marette. Với sự khích lệ của cha, anh chuyên tâm học chữ Hán và Latinh để chuẩn bị cho tương lai.

Khả năng và nhân cách của anh Phêrô đường được xác nhận ngay năm sau. Anh được Đức cha Havard Du nhận vào bậc thày giảng dù mới 16 tuổi, thày giảng trẻ tuổi nhất. Thày tiếp tục giúp xứ Bầu Nọ thời cha Cornay Tân, cho đến ngày bị bắt. Tính tình vui tươi, hiền lành, thày được mọi người trong xứ mến chuộng.

Thánh Phêrô VŨ TRUẬT
Thày giảng - (1817 – 1838)

Thày Phêrô Vũ Truật, 21 tuổi, đáng lưu danh muôn thuở cho câu nói bất hủ, trả lời lại những viên quan chê dại dột lãng phí tuổi thanh xuân : "Chưa chắc là tôi dại. Ai khôn mới biết hiến mình cho chân lý, để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời".

Phêrô Vũ Truật sinh năm 1817 ở làng Hà Thạch, họ Kẻ Thiếc, huyện Sơn Vy, trấn Sơn Tây. Gia đình anh rất nghèo, cha chết sớm, vốn liếng lại chẳng có, mẹ anh phải đầu tắt mặt tối suốt ngày,để nuôi ba con dại, nên Phêrô Truật không được đi học và gầy yếu xanh xao.

Tuy nhiên, anh Truật có lòng đạo đức, thường lui tới nhà thờ kinh lễ, nên được cha Tân chánh xứ Bầu Nọ chọn vào phục vụ những việc nhẹ trong xứ và tạo điều kiện cho ăn học. Dầu thế mặc lòng, anh Truật cũng chẳng bằng ai, phần trí khôn hơi chậm, phần hay bị đau ốm luôn, anh chỉ có thể biết đọc biết viết sơ sơ. Bù lại, anh rất thuộc kinh, nên đặc trách việc dạy kinh truyền khẩu cho các thiếu nhi nhỏ tuổi.

Mãi đến khi bị bắt giam trong ngục tù rồi, Đức cha Havard Du mới chứng nhận anh là thày giảng, vừa để lòng tin làm chứng cho đức tin. Thày Truật tuy không còn cơ hội để giảng bằng lời nói, nhưng thái độ kiên tín của thày chính là lời giảng có sức thuyết phục hơn nhiều.




Ba tấm lòng vàng

Ở Bầu Nọ có người ngoại giáo tên Đức cầm đầu một băng cướp đã bị bắt. Để nhẹ tội, y nói với vợ là Yến vu oan cho cha Cornay Tân tội tổ chức phản loạn. Chị ta liền giả vờ đến xin học đạo để dò xét những nơi cha thường trú ẩn. Khi biết được, chị ta liền giấu vũ khí trong vườn nhà cha, rồi đi mật báo cho các quan tỉnh Sơn Tây.

Ngày 20-6-1837, quan Sơn Tây phái 1500 quân lính đến làng Bầu Nọ, bắt linh mục Tân. Hai thày Mỹ và Đường cũng như anh Truật ngồi lẫn vào đám đông dân chúng bị tập trung nơi đình làng. Lính lục soát từ sáng tới trưa vẫn không thấy cha Tân đâu cả. Bà Yến liền bày cho họ bắt anh Truật và hai thày Mỹ, Đường, là những người thân thiết với cha xứ để tra hỏi.

Chiều hôm đó, lính phát hiện được cha đang ẩn trong bụi rậm. Nhưng để có thêm nhân chứng ghép tội cha, ba vị phụ tá này cũng bị áp giải với ngài hơn sáu dặm đường, về nhà lao tỉnh Sơn Tây. Tại công đường, ba vị đã khéo léo minh chứng cha xứ không theo giặc nổi loạn, và giải thích những lời đồn đại sai về đạo. Thí dụ quan hỏi : "Sao các ông móc mắt người chết để luyện bùa phép ?" Thày Mỹ trả lời : "Không lẽ quan tin những lời đồn đãi vô lý đó sao ? Bởi nếu chúng tôi làm như thế, cha mẹ vợ con họ đâu để cho chúng tôi yên. Vậy mà chúng tôi vẫn ra vào nhà họ, gặp gỡ thân ái và vui vẻ"

Các cuộc thẩm vấn thường đi liền với những tra tấn dã man. Đây là chứng thư của thày Mỹ: "Lính lột áo chúng tôi ra, bắt chúng tôi nằm xuống lấy dây thừng cột tay chân, rồi kéo căng cột vào bốn góc, nguyên sự căng nọc cũng làm chúng tôi đau đớn vô cùng, thế rồi họ bắt đầu đánh đòn… Cuối cùng họ không đánh bằng một chiếc roi nữa mà là cả bó. Mỗi lần đánh hằng trăm đầu roi mây in lằn trên da thịt chúng tôi, tạo nên nhiều vết thương đẫm máu…"

Riêng thày Truật vì ốm yếu nên được đeo gông nhẹ hơn và bị ít đòn hơn. Nhưng sau mỗi kỳ tra tấn cả ba người đều bị kiệt sức, phải khiêng về ngục thất. Ngày 20-9, lính canh tù loan tin cha Tân đã bị trảm quyết, và khuyên các thày bỏ đạo cả ba vị cùng nói : "Chúng tôi mừng vì thày chúng tôi được tử đạo, chúng tôi nguyện theo gương Ngài."

Giai đoạn này thày Mỹ ghi lại một lá thư : "Suốt bốn tháng liền chúng tôi bị gông cùm xiềng xích, chịu lính canh ngược đãi, phòng giam ẩm thấp hôi hám, ruồi muỗi tự do hoành hành, trên người thì đầy những vết thương bị tra tấn."

Tháng 10 bản án tỉnh Sơn Tây tâu vua Minh Mạng được chuẩn phê và gởi về. Nhưng thay vì giết ngay bản án quyết định "giam hậu" nghĩa là khoan xử chờ quyết định mới, bề ngoài có vẻ nhân đạo, nhưng thật ra bên trong rất thâm độc. Với thời gian nhiệt tình ban đầu có nguy cơ phai nhạt, vì tử tội luôn bị ám ảnh đến chuyện phải ngồi tù không biết đến bao giờ. Đàng khác sự chịu đựng con người có hạn, quá khổ đau, quá mòn mỏi, quá thất vọng, con người dễ bị lung lạc và dễ bị thay đổi ý định. Thực tế ba thày giảng phải chờ thêm 14 tháng, vị chi tất cả là một năm rưỡi bị giam cầm. Nhưng suốt thời gian bị giam cầm thử thách lâu dài đó, ba thày vẫn gắn bó với nhau trong nhẫn nại, can đảm và giữ mãi phúc tử đạo, mỗi sáng cũng như mỗi tối, các thày lớn tiếng đọc kinh Mân Côi chung, cầu nguyện chung, các đồ ăn thức uống, thuốc men nhận được ba vị chia sẻ cho lính canh, ai đến thăm đều được khuyên nhủ : "Anh em hãy sống hòa thuận với mọi người trong gia đình, làng nước, hãy là giáo hữu nhiệt thành, vì đời sống trần gian chẳng là bao. Chúng tôi đã vâng theo ý Chúa định đoạt, hy vọng mai này chúng ta sẽ đoàn tụ trên Nước trời"

Cha Triệu giả làm thường dân mang Mình Thánh Chúa cho các thày, đó quả là hồng phúc lớn lao. Ta thử đọc tâm sự của thày Đường gởi cho cha Marette trong thư : "Hôm nay là ngày trọng đại chúng con được rước Mình Thánh Chúa. Xin tạ ơn Chúa đã viếng thăm và làm vơi nhẹ những xiềng xích của chúng con… cửa Thiên Đàng đã gần kề, nghĩ đến hạnh phúc đang chờ đợi, chúng con chẳng còn ước ao sự gì khác nữa…"

Cùng Chiến Thắng Vinh Quang

Năm 1838, triều đình duyệt lại bản án và chỉ thị cho quan tỉnh Sơn Tây thi hành. Ngày 18-12 ba chứng nhân anh dũng bị điệu ra pháp trường ở Gò Vôi làng Mông Phụ, tỉnh Sơn Tây. Mỗi người mang trên ngực tấm thẻ ghi tên họ, nguyên quán, tội theo đạo Giatô, đã thú nhận, truyền xử trảm. Trên đường đến nơi hành quyết, như đã hẹn trước ba thày cùng làm dấu khi thấy cha Triệu đứng giữa dân chúng ban phép lành tha tội. Một người lính cho các Ngài uống rượu, ba vị cám ơn, uống nước trà và nói : "Thày giảng chúng tôi kiêng rượu như kiêng sắc dục và kiêng phản bội."

Đến nơi xử, ba thày nằm dài trên chiếu, quân lính quây thành một vòng tròn lớn, để ngăn cản dân chúng. Từng vị một bị trói chân vào cột và trói chéo tay ra sau lưng. Dây thừng tròng sẵn vào cổ. Giữa tiếng chiêng trống vang rền, theo lệnh quan mỗi tên lính nắm chặt đầu dây xiết thật căng, chờ tới khi tất cả tắt thở, máu ứa ra miệng. Sau đó lấy lửa đốt gan bàn chân để xác nhận các tử tội đã chết thật rồi. Cha Marette và giáo dân đưa thi hài ba thày về họ Kẻ Măng gần đấy tẩm liệm. Ngài dâng lễ cầu hồn tạ ơn Chúa đã cho các bậc tôi trung thắng trận khải hoàn.
Đức Lêô XIII suy tôn ba thày Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Phêrô Trương Văn Đường và Phêrô Vũ Truật lên bậc chân phước ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.